Đề tài Nguyên tắc thế giới quan trong nhân thức của triết học Mác rút ra ý nghĩa và liên hệ với thực tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hiện nay

Qua hơn hai thập kỷ đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã giành được những thành tựu rất quan trọng. Các thành tựu của Đảng và dân tộc đã giành được trong lĩnh vực vật chất và văn hoá tinh thần là kết quả của trí tuệ, sức sáng tạo, tinh thần lao động cần cù, thông minh và lòng dũng cảm của con người, dân tộc Việt Nam. Vào cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đất nước nằm trong thế bị bao vây, cấm vận của các lực lượng thù địch, sản xuất xã hội chậm phát triển, đời sống nhân dân rất khó khăn, đây đó đã manh nha xuất hiện dấu hiệu của cuộc khủng hoảng toàn diện. Lúc đó, tình hình chính trị thế giới có biến động dữ dội - sự sụp đổ của CNXH (CNXH) ở Liên Xô và Đông Âu, sự thoái trào của phong trào cách mạng thế giới đã tạo nên một cơn "động đất chính trị". Dư chấn của nó, nếu không được ngăn chặn, có thể làm cho mọi thành quả của cách mạng Việt Nam tiêu tan, giống như ở phần đông các nước trong hệ thống XHCN thế giới. Trong bối cảnh vận mệnh của dân tộc đứng trước tình thế hiểm nghèo, thành quả của cách mạng bị đe doạ, Đảng ta đã thể hiện trách nhiệm to lớn của mình trước lịch sử, trung thành với lý tưởng cách mạng, nêu cao khí phách độc lập sáng tạo, tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào sức mạnh vĩ đại của nhân dân, chủ động tiến hành đổi mới nhận thức và tư duy, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế. Đến nay, công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua được một quãng thời gian khá dài, hơn 20 năm. Trong quá trình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng định hướng chính trị, toàn dân là đội quân chủ lực của sự nghiệp đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học, giáo dục. Kết quả của công cuộc đổi mới đã đưa lại cho dân tộc ta một xu thế mới, một lực mới để cùng cộng đồng quốc tế bước vào một thế kỷ mới, một kỷ nguyên mới, cùng hội nhập và cùng phát triển, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nguyên tắc bất di, bất dịch trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và đổi mới tư duy lý luận nói riêng ở nước ta là giữ vững độc lập dân tộc, tự chủ, và CNXH. Chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định là nền tảng tư tưởng của Đảng, của dân tộc, là nguyên tắc và phương pháp luận của sự nghiệp đổi mới đất nước. Do vậy, trong hàng loạt các nhân tố tạo nên sự thành công, những như những thành quả to lớn như hiện nay, phải kể đến có vai trò đặc biệt quan trọng của triết học Mác - Lênin. Các nguyên tắc thế giới quan cũng như phương pháp luận trong triết học Mác, trong hệ thống quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được các lãnh tụ của Đảng, các nhà khoa học, các nhà lý luận nhận thức lại và lựa chọn để vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, phù hợp vào điều kiện mới. Xuất phát từ nhu cầu thực tế để hiểu rõ, sâu hơn, và ứng dụng triệt để triết học Mác nhằm đạt hiệu quả tốt hơn nữa trong thực tiễn. Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, nhóm tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu, phân tích “nguyên tắc thế giới quan trong nhận thức của triết học Mác”, để rồi từ đó rút ra ý nghĩa và liên hệ với thực tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hiện nay.

doc23 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2667 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguyên tắc thế giới quan trong nhân thức của triết học Mác rút ra ý nghĩa và liên hệ với thực tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Qua hơn hai thập kỷ đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã giành được những thành tựu rất quan trọng. Các thành tựu của Đảng và dân tộc đã giành được trong lĩnh vực vật chất và văn hoá tinh thần là kết quả của trí tuệ, sức sáng tạo, tinh thần lao động cần cù, thông minh và lòng dũng cảm của con người, dân tộc Việt Nam. Vào cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đất nước nằm trong thế bị bao vây, cấm vận của các lực lượng thù địch, sản xuất xã hội chậm phát triển, đời sống nhân dân rất khó khăn, đây đó đã manh nha xuất hiện dấu hiệu của cuộc khủng hoảng toàn diện. Lúc đó, tình hình chính trị thế giới có biến động dữ dội - sự sụp đổ của CNXH (CNXH) ở Liên Xô và Đông Âu, sự thoái trào của phong trào cách mạng thế giới đã tạo nên một cơn "động đất chính trị". Dư chấn của nó, nếu không được ngăn chặn, có thể làm cho mọi thành quả của cách mạng Việt Nam tiêu tan, giống như ở phần đông các nước trong hệ thống XHCN thế giới. Trong bối cảnh vận mệnh của dân tộc đứng trước tình thế hiểm nghèo, thành quả của cách mạng bị đe doạ, Đảng ta đã thể hiện trách nhiệm to lớn của mình trước lịch sử, trung thành với lý tưởng cách mạng, nêu cao khí phách độc lập sáng tạo, tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào sức mạnh vĩ đại của nhân dân, chủ động tiến hành đổi mới nhận thức và tư duy, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế. Đến nay, công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua được một quãng thời gian khá dài, hơn 20 năm. Trong quá trình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng định hướng chính trị, toàn dân là đội quân chủ lực của sự nghiệp đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học, giáo dục... Kết quả của công cuộc đổi mới đã đưa lại cho dân tộc ta một xu thế mới, một lực mới để cùng cộng đồng quốc tế bước vào một thế kỷ mới, một kỷ nguyên mới, cùng hội nhập và cùng phát triển, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nguyên tắc bất di, bất dịch trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và đổi mới tư duy lý luận nói riêng ở nước ta là giữ vững độc lập dân tộc, tự chủ, và CNXH. Chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định là nền tảng tư tưởng của Đảng, của dân tộc, là nguyên tắc và phương pháp luận của sự nghiệp đổi mới đất nước. Do vậy, trong hàng loạt các nhân tố tạo nên sự thành công, những như những thành quả to lớn như hiện nay, phải kể đến có vai trò đặc biệt quan trọng của triết học Mác - Lênin. Các nguyên tắc thế giới quan cũng như phương pháp luận trong triết học Mác, trong hệ thống quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được các lãnh tụ của Đảng, các nhà khoa học, các nhà lý luận nhận thức lại và lựa chọn để vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, phù hợp vào điều kiện mới. Xuất phát từ nhu cầu thực tế để hiểu rõ, sâu hơn, và ứng dụng triệt để triết học Mác nhằm đạt hiệu quả tốt hơn nữa trong thực tiễn. Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, nhóm tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu, phân tích “nguyên tắc thế giới quan trong nhận thức của triết học Mác”, để rồi từ đó rút ra ý nghĩa và liên hệ với thực tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hiện nay. MỤC I NỘI DUNG CƠ BẢN TRIẾT HỌC MÁC Hoàn cảnh ra đời Triết học Mác, cũng như các hệ thống triết học trước đó, đều ra đời dựa trên những điều kiện kinh tế-xã hội nhất định. Điều kiện về kinh tế-xã hội Chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã bước sang giai đoạn mới Triết học Mác ra đời trong giai đoạn CNTB đã bước sang giai đoạn mới nhờ tác động của cách mạng công nghiệp, đã tạo ra một LLSX vô cùng to lớn so với các thời kỳ trước đó. Mâu thuẩn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt Sự phát triển của CNTB đã làm cho những mâu thuẩn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt, nhiều cuộc đấu tranh giai cấp đã nổ ra, đi từ thấp đến cao, từ tự phát đến tự giác, từ dân sinh đến dân chủ; giai cấp tư sản không còn là giai cấp cách mạng, giai cấp vô sản trở thành một lực lượng chính trị lớn mạnh, là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất. Triết học Mác ra đời là tất yếu khách quan Từ thực tiển xã hội, nhất là từ thực tiển cách mạng của giai cấp vô sản đã nảy sinh một yêu cầu mang tính khách quan là phải được soi sáng bằng một lý luận khoa học. Sự ra đời của Triết học Mác, là một tất yếu khách quan, là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đang đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản. Điều kiện về mặt lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên Sự kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học Sự ra đời của Triết học Mác phù hợp với quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại; là sự kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học nhân loại, nó được Mác và Anghen sáng tạo ra và được Lênin phát triển một cách xuất sắc. Xây dựng học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ. Các ông vừa phê phán chủ nghĩa duy tâm, vừa đánh giá cao tư tưởng biện chứng của triết học Heghen, của Phơbach, cải tạo chúng và xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ; đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Triết học Mác ra đời trong sự tác động qua lại với quá trình các ông kế thừa và cải tạo học thuyết kinh tế chính trị Anh và lý luận về CNXH. Vai trò quan trọng của những thành tựu khoa học tự nhiên Những thành tựu khoa học tự nhiên có vai trò rất quan trọng trong sự ra đời của triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên như: định luật bảo toàn năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đacuyn làm bộc lộ rõ tính hạn chế và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới, đồng thời cung cấp cơ sở khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật. Tóm lại, Triết học Mác cũng như toàn bộ Chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử, không những vì nó là sự phản ảnh thực tiển xã hội, nhất là thực tiển cách mạng của giai cấp vô sản mà còn là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại. Nội dung cơ bản của triết học Mác Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học, tạo ra hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật - chủ nghĩa duy vật biện chứng và tạo ra hình thức cao nhất của phép biện chứng - phép biện chứng duy vật. Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, C.Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa quan điểm duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Đó là sự sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội (chủ nghĩa duy vật lịch sử) Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của triết học trong hệ thống tri thức khoa học cũng biến đổi. Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ giải thích thế giới, mà chủ yếu vạch ra những con đường, những phương tiện để cải tạo thế giới. “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”. Luận điểm đó của Mác nói lên sự khác nhau về chất giữa triết học của ông với các học thuyết triết học trước kia. “Khuyết điểm chủ yếu” của mọi học thuyết duy vật trước Mác là chưa có quanđiểm đúng đắn về thực tiễn và chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm về lịch sử nên nó chưa trở thành công cụ nhận thức khoa học để cải tạo thế giới bằng cách mạng. Triết học Mác đã khắc phục được những hạn chế đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành triệt để. Ở triết học Mác có sự thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng. Lợi ích của giai cấp công nhân không đối lập, mà phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử, vì vậy, giai cấp công nhân luôn luôn quan tâm đến sự nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan. Các nhà sáng lập ra triết học Mác không coi triết học của mình là những tri thức tuyệt đối, bất biến. Trái lại, nó là một hệ thống mở, luôn luôn đòi hỏi phải được không ngừng bổ sung và phát triển do những thành tựu của các ngành khoa học, hoạt động thực tiễn mang lại. Thế giới quan duy vật của triết học Mác quan niệm: Vật chất: là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Bản chất của ý thức: là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo, tích cực và chủ động về thế giới khách quan. Qua đó khẳng định, vật chất là cái có trước, cảm giác (ý thức) là cái có sau, vật chất đóng vai trò quyết định nguồn gốc và nội dung khách quan của ý thức. Bởi vì, thực tại khách quan (vật chất là thực tại khách quan) đưa lại cảm giác cho con người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan. Đồng thời, con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện thực khách quan. Đến đây, triết học Mác đã giải quyết được hai vấn đề cơ bản nhất của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Và cũng dựa trên mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, triết học Mác đã hình thành nên 4 nguyên tắc thế giới quan trong nhận thức: Nguyên tắc khách quan; Nguyên tắc vận động; Nguyên tắc năng động; Nguyên tắc lịch sử cụ thể. MỤC II CÁC NGUYÊN TẮC THẾ GIỚI QUAN TRONG NHẬN THỨC CỦA TRIẾT HỌC MÁC Nguyên tắc khách quan Như đã phân tích ở phần trên, triết học Mác đã đưa ra được hai khái niệm quan trọng: Vật chất và Ý thức. Và hơn thế nữa, triết học Mác đã xây dựng được mối quan hệ biện chứng giữa hai khái niệm trên. Một trong các nội dung đó là vật chất quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản ảnh của vật chất và có tác động trở lại vật chất. Đây là tiền đề để xây dựng nên nguyên tắc đầu tiên của thế giới quan duy vật của triết học Mác: Nguyên tắc khách quan. Triết học Mác khẳng định: vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ não con người. Vật chất tồn tại khách quan, có tính khả tri và mang tính thứ nhất trong mối quan hệ biện chứng với ý thức. Vật chất chính là tiền đề, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức. Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó. Như vậy, thế giới vật chất với những thuộc tính và quy luật của nó tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người, do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Đây cũng là nội dung cơ bản của nguyên tắc khách quan trong thế giới quan của triết học Mác. Nguyên tắc này đòi hỏi: Trong nhận thức sự vật phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, xem xét sự vật đúng như nó tồn tại trong thực tế. Đồng thời, trong hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế, phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Thật vậy, do ý thức đầu tiên chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nội dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, nếu không xuất phát từ thực tế khách quan thì sẽ là sa vào chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn. Vật chất tồn tại không phụ thuộc vào ý thức của con người, con người cũng không thể tạo ra các đối tượng vật chất và cũng không thể thay đổi được các quy luật vận động của nó. Nên khi tác động vào các sự vật hiện tượng, nếu con người không xem xét, không xuất phát từ các thuộc tính, quy luật khách quan của chúng mà chỉ hành động theo chủ quan duy ý chí và ảo tưởng thì không thể đạt được mục đích đề ra. Bên cạnh đó, ý thức có tính sáng tạo và mang tính thứ hai nên nó còn có vai trò định hướng chỉ đạo cho hành động của con người. Bản thân ý thức tự nó không thể trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất. Sự tác động này phải bắt đầu từ khâu nhận thức cho được quy luật khách quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan để hành động. Vai trò của ý thức là trang bị cho con người những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng. Trên cơ sở ấy, con người xác định các biện pháp đề thực hiện tổ chức các hoạt động thực tiễn. Do đó, nếu ý thức không phản ánh được thế giới khách quan, không xuất phát từ thực tế thì sự phản ánh của ý thức sẽ là sai lầm và đưa hành động của con người đến thất bại nhanh chóng. Ngược lại, nếu ý thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan, phù hợp với quy luật khách quan thì sẽ định hướng và thúc đẩy hoạt động cải tạo thế giới của con người có hiệu quả. Như vậy, nguyên tắc khách quan trong thế giới quan của triết học Mác đã cho ta một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất đới với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người: tất cả phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và tuân theo các quy luật khách quan. Từ việc phân tích nguyên tắc khách quan trong thế giới quan của triết học Mác ta có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn của nguyên tắc này. Đó là: Mọi suy nghĩ và hành động phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế khách quan và hành động theo quy luật khách quan. Điều này đòi hỏi con người trong nhận thực và hành động phải đi từ thực tế khách quan đề nhận thức, xác định mục đích, kế hoạch, các biện pháp cụ thể; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động. Đồng thời, cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí trong hoạt động thực tiễn, chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tế. Đó là những hành động lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và hành động. Việc đề ra đương lối, chủ trương, chính sách phải xuất phát từ tình hình thực tế khách quan. Nguyên tắc năng động Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức là sự phản ánh khách quan vào trong bộ óc của con người một cách năng động sáng tạo. Ý thức có thể tác động lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người, vì vậy con người phải tôn trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội dung của ý thức là do yếu tố khách quan quy định. Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cũng có nghĩa là ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới. Tính năng động sáng tạo của ý thức thể hiện ở việc con người thu nhận thông tin, cải biến thông tin trên cơ sở cái đã có, ý thức sẽ tạo ra tri thức mới về vật chất. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Phát huy tính năng động chủ quan nhưng vẫn phải tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan trong mọi hoạt động của mình. Phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực của ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người. Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Ý thức và tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan vì nó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược lại ý thức và tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan. Vì vậy phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan, đồng thời khắc phục bênh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại trong qua trình đổi mới hiện nay. Như vậy sức mạnh ý thức con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất thoát ly điều kiện khách quan mà biết dựa vào điều kiện vật chất đã có phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới một cách chủ động sáng tạo và có hiệu quả vì ý thức không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách quan. Nhân tố chủ quan là ý thức và hoạt động có ý thức của con người. Vì ý thức có vai trò rất quan trọng nên phải phát huy nó. Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này còn phải tôn trọng tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt khác phải tự tu dưỡng rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động. Phát huy vai trò chủa tri thức và lý luận cách mạng. Coi trọng công tác giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tường Hồ Chí Minh, giáo dục tri thức khoa học, kỹ thuật, bồi dưỡng nhiệt tình cách mạng cho nhân dân. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước. Phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân cũng như của toàn xã hội trong nhận thức và hành động cách mạng. Kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí. Chống thái độ thụ động, ỉ lại, bảo thủ, trì trệ. Coi trọng lợi ích, kết hợp hài hòa các lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích tinh thần. Kiên quyết đấu tranh chống những tiêu cực trong xã hội. Nguyên tắc vận động Vận động là một phạm trù của triết học Mác-Lê nin dùng để chỉ về một phương thức tồn tại của vật chất (cùng với cặp phạm trù không gian và thời gian), đó là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp. Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy. Nguyên tắc vận động là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản. Cơ sở lý luận của nguyên tắc gắn liền với nguyên lý về sự phát triển của phép duy vật biện chứng. Vận động là tiến lên từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Với tính chất là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc tính cố hữu của vật chất" và "là phương thức tồn tại của vật chất" có nghĩa là vật chất tồn tại bằng vận động (là phương thức của vật chất). Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình, khi con người nhận thức được những hình thức vận động của vật chất, qua đó nhận thức được bản thân vật chất. Vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất (là thuộc tính cố hữu của vật chất). Quan niệm về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: Tất cả những gì cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì người ta cho là tồn tại vĩnh cữu thì nay đã trở thành nhất thời, và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một vòng tuần hoàn vĩnh cửu. Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại lúc đang sinh sống, Engels đã phân chia vận động thành 5 hình thức cơ bản (xếp từ đơn giản đến phức tạp). Đó là: Vận động cơ học (là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian). Vận động vật lý (tức sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt điện, v.v.). Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất). Vận động sinh học (trao đổi c