Đề tài Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện

Thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử của Tòa án Việt Nam. Chính vì vậy cùng với việc quy định cụ thể trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002, nguyên tắc này còn được ghi nhận trong rất nhiều văn bản pháp luật của nước ta. Hiện nay, nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Nhận thức được tầm quan trọng của nguyên tắc này, em đã chọn đề tài “Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện”

doc10 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4095 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỞ ĐẦU Thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử của Tòa án Việt Nam. Chính vì vậy cùng với việc quy định cụ thể trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002, nguyên tắc này còn được ghi nhận trong rất nhiều văn bản pháp luật của nước ta. Hiện nay, nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Nhận thức được tầm quan trọng của nguyên tắc này, em đã chọn đề tài “Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện” NỘI DUNG I. Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự. 1. Khái niệm cấp xét xử. Hiện nay ở Việt Nam chưa có một khái niệm pháp lý chính thức về cấp xét xử.Tuy nhiên, khái niệm cấp xét xử trong khoa học pháp lý Liên Xô được thừa nhận khá phổ biến ở nước ta. Theo đó cấp xét xử được hiểu là : “giai đoạn xem xét vụ án tại Toà án với thẩm quyền xác định” Từ điển bách khoa pháp lý - NXB Bách khoa Xô Viết 1984, tr126. . Để bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Toà án, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân, các quốc gia đều áp dụng nguyên tắc vụ án có thể được tổ chức xét xử nhiều lần và tổ chức hệ thống Toà án để thực hiện nguyên tắc đó trong thực tế. Cấp xét xử không đơn thuần chỉ là thủ tục tố tụng; nó còn liên quan nhiều đến cách tổ chức tố tụng, tổ chức Toà án để thực hiện việc xét xử lại vụ án. Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Tức vụ án mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn định luật được Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Còn các bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. 2. Nội dung của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong Tố tụng dân sự. Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là quan điểm chung có hướng chỉ đạo trong tổ chức tố tụng. Nguyên tắc này được tổ chức thực hiện bằng các quy định cụ thể của thủ tục tố tụng trong pháp luật tố tụng của mỗi quốc gia. Thủ tục tố tụng càng chính xác thì nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử càng phát huy hiệu quả của nó trong bảo đảm xét xử đúng đắn, khách quan vụ án và bảo vệ có hiệu quả quyền của người tham gia tố tụng. Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử được quy định tại Điều 17 - BLTTDS: “1. Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật; đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật. 2. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của Bộ luật này”. Ngoài ra, nguyên tắc này còn được quy định thêm về thời hạn kháng cáo và kháng nghị tại Điều 245, 247, 252 – BLTTDS Tham khảo thêm quy định cụ thể trong phần phụ lục đính kèm . Từ các quy định của BLTTDS có thể hiểu nội dung cơ bản của nguyên tắc này như sau : Thứ nhất, các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án bị kháng cáo kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Theo đó các bản án, quyết định của tòa án sơ thẩm khi ban hành sẽ chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà được trù liệu một thời hạn nhất định cho các đương sự kháng cáo, viện kiểm sát kháng nghị. Hết thời hạn đó mà các chủ thể không kháng cáo, kháng nghị thì bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, còn nếu bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì sẽ phải được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, phạm vi phúc thẩm là chỉ xét lại những nội dung do đương sự kháng cáo và bị giới hạn bởi phạm vi mà bản án sơ thẩm đã giải quyết. Toà phúc thẩm không thể giải quyết những yêu cầu mới vì nếu như vậy sẽ vừa xét xử sơ thẩm vừa xét xử phúc thẩm ngay nên sẽ vi phạm nguyên tắc hai cấp xét xử. Thứ hai, bản án, quyết định của tòa án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật và phải được thi hành. Quy định này nhằm bảo đảm cho tính nhanh chóng của tố tụng cũng như tránh tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu xét lại của đương sự để kéo dài vụ án, pháp luật quy định chỉ cho phép đương sự kháng cáo, viện kiểm sát kháng nghị một lần.Theo đó, những bản án, quyết định của tòa án phúc thẩm là chung thẩm và được mọi chủ thể tuyệt đối chấp hành. Giám đốc thẩm và tái thẩm không phải là cấp xét xử thứ ba mà chỉ là một thủ tục đặc biệt để xem xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nước ta, chỉ những người có thẩm quyền đứng đầu cơ quan tòa án hoặc viện kiểm sát mới có quyền kháng cáo giám đốc thẩm hay tái thẩm mà không trao quyền đó cho các đương sự, 3. Điều kiện đảm bảo thực hiện nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử Phương diện lập pháp: Để thực hiện có hiệu quả nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, các quy định về thủ tục tố tụng cần thỏa mãn các điều kiện sau: - Để vụ án được xét xử một cách khách quan, toàn diện, chính xác, phải đảm bảo đầy đủ các cơ sở pháp lý và tổ chức cho việc xét xử sơ thẩm vụ án. Cùng với đó tòa án cấp sơ thẩm phải đảm bảo giái quyết mọi vấn đề liên quan đến vụ án. - Pháp luật phải đảm bảo tối đa quyền kháng cáo của các đương sự đối với bản án, quyết định sơ thẩm. Đó là các quy định liên quan đến thời hạn kháng cáo, kháng nghị, liên quan đến quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm. - Tính chất của phúc thẩm là xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp đối với vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn pháp luật quy định. Thủ tục phiên tòa phúc thẩm phải được tiến hành như xét xử sơ thẩm, Tòa phúc thẩm có quyền quyết định về thực chất vụ án, nhằm thể hiện đầy đủ rằng cấp phúc thẩm là một cấp xét xử. - Nhằm đảm bảo tính ổn định của phần bản án, quyết định không có kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị, cần phải xác định phạm vi xét xử phúc thẩm phải được rõ ràng và không vượt quá những vấn đề đã được cấp sơ thẩm xét xử và kết luận, đồng thời không vượt quá yêu cầu của kháng cáo, kháng nghị. Phương diện thực hiện pháp luật: - Một trong những điều kiện cần thiết và rất quan trọng giúp cho việc nhận thức pháp luật được đúng đắn, việc áp dụng được thống nhất và dễ dàng là việc giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật phải nhanh chóng, kịp thời. Bởi lẽ, muốn thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật, trước tiên phải làm cho các quy phạm pháp luật trở nên dễ hiểu, dễ áp dụng. - Quy định rõ trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc đảm bảo quyền kháng cáo, kháng nghị của đương sự. Đảm bảo các điều kiện thuận lợi nhất để chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị bản án quyết định sơ thẩm một cách kịp thời và đầy đủ quyền của mình. Phương diện tổ chức. - Tổ chức hệ thống tòa án và quy định về thẩm quyền xét xử của các tòa án phải phù hợp khả năng thực tế của từng cấp xét xử, trình độ tổ chức, khả năng chuyên môn cũng như về điều kiện cơ sở vật chất nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xét xử, đảm bảo xét xử kịp thời, chính xác và khách quan. - Tổ chức tòa án theo cấp xét xử phải hạn chế được sự lệ thuộc và can thiệp vào hoạt động xét xử nhằm đảm bảo sự độc lập trong xét xử, phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền. - Nhằm đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất với mô hình tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng trong cải cách tư pháp, phù hợp với việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, cần phải đổi mới trong việc tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng khác như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cho phù hợp và tương ứng với tổ chức của Tòa án các cấp. - Trình độ chuyên môn của người tiến hành tố tụng cần phải được nâng cao. Cần một đội ngũ người tiến hành tố tụng có chuyên môn đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử, có đạo đức nghề nghiệp để thực sự liêm chính, chí công vô tư, thật sự khách quan trong công tác. - Nhằm bảo đảm đáp ứng kịp thời với yêu cầu thực tiễn của công tác xét xử ở từng cấp, cần tăng cường chất lượng hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác xét xử. 4. Ý nghĩa của nguyên tắc hai cấp xét xử - Quy định nguyên tắc hai cấp xét được xem là một sự đảm bảo pháp lý cần thiết cho việc xét xử của Tòa án được chính xác và đúng đắn. Bởi lẽ, qua hai cấp xét xử khác nhau, những vấn đề thuộc nội dung vụ án sẽ một lần nữa được xem xét, phân tích và đánh giá đầy đủ, kỹ càng hơn. - Góp phần nâng cao trách nhiệm của Hội đồng xét xử sơ thẩm, giúp họ có thái độ thận trọng và có trách nhiệm hơn trước khi đưa ra phán quyết của mình, pháp luật đã quy định một vụ việc dân sự có thể được xét xử ở hai cấp cũng như quy định về việc quyết định ở cấp sơ thẩm có thể bị sửa hoặc bản án có thể bị hủy, quyết định ở cấp phúc thẩm sẽ kịp thời sửa chữa những sai lầm hoặc các vi phạm pháp luật mà cấp sơ thẩm đã mắc phải. - Việc xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử sẽ giúp tìm ra nguyên nhân dẫn đến những sai lầm hay những vi phạm pháp luật trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung. Từ đó tìm ra các giải pháp thích hợp để sửa chữa, khắc phục về phương diện lập pháp cũng như vấn đề hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là hoàn thiện tổ chức Tòa án đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc hai cấp xét xử. II. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong Tố tụng dân sự Thực tế cho thấy hiện nay có rất nhiều yếu tố tác động đến hoạt động xét xử của Toà án. Chính vì vậy mà việc áp dụng nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử ở nước ta còn nhiều hạn chế, các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này đã và đang bộc lộ những điểm chưa hợp lý dẫn đến vi phạm nguyên tắc hai cấp xét xử, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân và làm kéo dài quá trình tố tụng. Hiện nay, tình trạng một vụ án bị xét xử kéo dài nhiều năm vẫn còn khá phổ biến ở nước ta, thậm chí có những vụ án trải qua hàng chục lần xét xử và kéo dài hàng chục năm. Ví dụ: vụ án tranh chấp nhà và đất ở giữa bị đơn là ông Trương Gia Hải và nguyên đơn là bà Trương Thị Bản, trú tại 27 phố Lê Lợi, quận Hà Đông (Hà Nội) với những chứng cứ rõ ràng nhưng qua 14 năm (1995-2009) với 13 phiên tòa vẫn chưa kết thúc. Ngày 13/01/2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, đề nghị Hội đồng Thẩm phán xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm. Hội đồng Giám đốc thẩm đã quyết định hủy cả bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm, chuyển giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Có nghĩa là, vụ án lại quay về điểm xuất phát. Cơ quan tố tụng từ địa phương đến trung ương đã mất quá nhiều công sức và thời gian, người tham gia tố tụng thì tán gia bại sản Thực hiện chế độ hai cấp xét xử - cơ chế bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự - TS.Nguyễn Quang Hiền - TAND TP.Hồ Chí Minh / Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử. . Có thể thấy nguyên nhân của tình trạng trên là do cách quan niệm cũng như việc áp dụng trên thực tế nguyên tắc hai cấp xét xử ở nước ta chưa đúng với bản chất của nguyên tắc này. Cụ thể là: Một vụ án được xét xử đi, xét xử lại nhiều lần ở các cấp tòa án khác nhau có nhiều nguyên nhân, như từ sự phức tạp của đời sống dân sự; từ năng lực, trình độ, phẩm chất của người xét xử; từ sự bất cập của hệ thống pháp luật tố tụng dân sự. Về mặt luật pháp, có thể nói, chính các quy định về thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm “hủy bản án và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án” Tham khảo thêm tại Điều 277 - BLTTDS , thẩm quyền của hội đồng giám đốc thẩm “hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại” Tham khảo thêm tại Điều 299 - BLTTDS là nguyên nhân trực tiếp khiến rất nhiều vụ án phải xét xử đi, xét xử lại nhiều lần. Tòa án cấp sơ thẩm hay tòa án cấp phúc thẩm làm nhiệm vụ thu thập chứng cứ hay chứng minh những vấn đề liên quan đến vụ án. Hội đồng giám đốc thẩm chỉ xét lại vụ án trên hồ sơ do tòa án cấp sơ thẩm hay phúc thẩm chuyển giao, phiên họp giám đốc thẩm là họp kín không có sự tham gia của đương sự, người làm chứng, hơn nữa các thẩm phán giám đốc thẩm không tham gia thu thập chứng cứ, không tham gia phiên tòa sơ thẩm hay phúc thẩm. Vậy việc kiểm định sự thu thập chứng cứ không đầy đủ, không phù hợp, không đúng thủ tục có nên chăng quy định cho Hội đồng giám đốc thẩm. Thêm vào đó, một trong những căn cứ hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại là “kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án” Tham khảo thêm tại Khoản 1 – Điều 299 - BLTTDS . Thực tế đã chứng minh ở đây không có sự khác biệt rõ rệt giữa tính chất của phúc thẩm và giám đốc thẩm, do đó giám đốc thẩm bị biến dạng thành cấp xét xử thứ ba. Ở nước ta thẩm quyền phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm được trao cho nhiều đơn vị xét xử, có thể là một cấp tòa án hoặc một bộ phận chuyên môn của tòa án nhưng có thẩm quyền xét xử độc lập. Cùng với đó hệ thống tòa án lại được tổ chức thành ba cấp nên khi kết hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử đã khiến mỗi cấp tòa án có sự chồng chéo thẩm quyền. Ngoài tòa án cấp huyện chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm thì tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử cả sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm; TAND tối cao cũng có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Đặc biệt hơn, trong mỗi cấp tòa án lại có nhiều đơn vị xét xử và các đơn vị xét xử này có quyền xét lại những bản án, quyết định của đơn vị xét xử khác mặc dù chúng đều thuộc một cấp tòa án. Tình trạng này đã làm biến dạng nguyên tắc hai cấp xét xử. III. Hướng hoàn thiện pháp luật Thứ nhất, nhằm đảm bảo nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử được thực hiện theo đúng tinh thần của pháp luật cần phải quán triệt nguyên tắc những vấn đề sự kiện của vụ án chỉ có thể xem xét tại cấp sơ thẩm và cấp phúc. Do vậy, pháp luật cần có những sửa đổi, bổ sung một số quy định về tính chất, phạm vi của giám đốc thẩm theo hướng chỉ xem xét, giải quyết những vấn đề về trình tự thủ tục tố tụng chứ không thể xem xét lại những tình tiết, sự kiện của vụ án. Theo đó, cần quy định lại tính chất của giám đốc thẩm là chỉ xem xét những vấn đề thuộc về mặt pháp lý hoặc thủ tục tố tụng của vụ án. Đồng thời bãi bỏ những quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm hay cơ sở thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án, quyết định để xét xử lại vụ án được quy định tại Khoản 1 - Điều 283, Khoản 1, 2 - Điều 299 - BLTTDS về việc thu thập chứng cứ không đầy đủ, kết luận của bản án, quyết định không phù hợp tình tiết khách quan của vụ án. Quy định kết luận của bản án, quyết định không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án nên được sửa đổi là phần quyết định của bản án, quyết định không phù hợp với những nhận định của tòa án, tức là bản án, quyết định được tuyên bố thiếu cơ sở nên sẽ là căn cứ cho việc xét lại án theo thủ tục giám đốc thẩm. Thứ hai, hệ thống Toà án ở nước ta, trong đó có các toà chuyên trách được tổ chức theo đơn vị hành chính cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự độc lập trong xét xử của Toà án. Cần hoàn thiện pháp luật về tổ chức của Toà án có thẩm quyền xét xử các vụ án. Phải tổ chức hệ thống Tòa án nhằm thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử nhưng phải đảm bảo cấp xét xử sơ thẩm và cấp phúc thẩm độc lập với nhau chứ không bị lệ thuộc theo mô hình cấp trên cấp dưới của nhau. Để khắc phục hạn chế của pháp luật về tổ chức Toà án có thẩm quyền xét xử cần có sự đổi mới một số quy định của pháp luật, về thẩm quyền xét xử sơ thẩm cơ bản vẫn tổ chức theo hành chính lãnh thổ như như hiện nay, nhưng cần thành lập gộp một số Tòa án cấp huyện lại thành một Tòa án khu vực nhằm hình thành đội ngũ Thẩm phán có quy mô lớn hơn trong một Toà án, chất lượng xét xử cao hơn, giảm sức ép cho Toà án cấp trên, cùng với đó cũng sẽ hạn chế được sự dư thừa, sử dụng không hiệu quả nguồn nhân lực của Toà án cấp huyện. KẾT LUẬN Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng dân sự. Việc thực hiện nguyên tắc này không chỉ thể hiện sự thận trọng của Tòa án trong việc xét xử và tôn trọng quyền của đương sự mà nó còn là một trong những biểu hiện của dân chủ và tiến bộ trong tố tụng dân sự nước ta.Tuy nhiên trên thực tế do những quy định của pháp luật còn chưa thực sự hợp lý nên nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử được áp dụng ở nước ta còn nhiều hạn chế. Do đó, chúng ta cần khắc phục những hạn chế của pháp luật quy định về nguyên tắc này góp phần đảm bảo ý nghĩa của nó trong tố tụng dân sự.