Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết nền kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng cảu nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì mục tiêu cơ bản khi nhắc tới chính sách tiền tệ là tỷ lệ việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định giá cả, ổn dịnh lãi suất, ổn định các thị trường tài chính, ổn định trên các thị trường ngoại hối.
Vấn dề đặt ra cho ngân hàng trung ương là đạt được một hay một số mục tiêu nào đó ví dụ, ổn định giá cả cùng với tỷ lệ có việc làm cao, nhưng không có những tác động trực tiếp đến mục tiêu này. Ngân hàng trung ương có một loạt các công cụ :
Nghiệp vụ thị trường mở.
Thay đổi lãi suất chiết khấu .
Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Hạn mức tín dụng.
Hạn mức lãi suất.
Có thể tác động gián tiếp tới các mục tiêu trên sau một thời gian, thông thường khoảng hơn một năm. Ở việt nam, từ khi đổi mới tới nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện, và phát huy tác dụng với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn côn cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể cảu nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà ngiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
22 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6103 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhận xét các công cụ của chính sách tiền tệ từ năm 2008 đến năm 2010 của ngân hàng Nhà nước Việt Nam và đề ra giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHẬN XÉT CÁC CÔNG CỤ ĐIẾU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN TRONG THỜI GIAN TỪ 2008 – 2010
LỜI MỞ ĐẦU:
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết nền kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng cảu nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì mục tiêu cơ bản khi nhắc tới chính sách tiền tệ là tỷ lệ việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định giá cả, ổn dịnh lãi suất, ổn định các thị trường tài chính, ổn định trên các thị trường ngoại hối.
Vấn dề đặt ra cho ngân hàng trung ương là đạt được một hay một số mục tiêu nào đó ví dụ, ổn định giá cả cùng với tỷ lệ có việc làm cao, nhưng không có những tác động trực tiếp đến mục tiêu này. Ngân hàng trung ương có một loạt các công cụ :
(Nghiệp vụ thị trường mở.
(Thay đổi lãi suất chiết khấu .
(Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
(Hạn mức tín dụng.
(Hạn mức lãi suất.
Có thể tác động gián tiếp tới các mục tiêu trên sau một thời gian, thông thường khoảng hơn một năm. Ở việt nam, từ khi đổi mới tới nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện, và phát huy tác dụng với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn côn cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể cảu nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà ngiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức và phân tích những ưu nhược điểm của chính sách tiền tệ, đề tài “ Nhận xét các công cụ của chính sách tiền tệ từ năm 2008 đến năm 2010 của ngân hàng nhà nước Việt Nam và đề ra giải pháp” sẽ là một cái nhìn khách quan về chính sách tiền tệ Việt Nam.
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẦU NĂM 2008
Bối cảnh nền kinh tế năm 2008
Với tình hình chung là thị trường BDS chỉ trong vài tháng đã gia tăng chóng mặt, giá tăng từ 2 đến 3 lần so với năm 2007 đã tạo thành những bong bóng BDS đe dọa nhà đầu tư.
Thị truờng chứng khoán biến động thất thường nhưng hiện có xu hướng đi xuống với tốc độ 30%.
Muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phải có vốn đầu tư. Tuy nhiên dòng vốn chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiện nay là vốn tín dụng ngân hàng so với vốn đầu tư của ngân hàng và vốn tự có của nhà đầu tư.
Vô tình chúng ta đã vướng vào 1 vòng tròn mang tên “Tín dụng”.
Nhà đàu tư A vay mượn NDT B, trong khi NDT B lại vay mượn NDT C, tuy nhiên trước đó C lại vay mượn vốn của A. Tất cả đã tạo nên 1 vòng tròn khép kín, và cái thực sự di chuyển giữa vòng tròn là “tín dụng”. Với mục tiêu kiềm chế lạm phát, hỗ trợ thị trường chứng khoán và kìm hãm sự tăng trưởng nóng của thị trường BDS. Ngân hàng nhà nước Việt Nam đứng trước một bài toán khó trong công cuộc điều hành chính sách tiền tệ.
Tất cả những khó khăn trên được đặt lên vai trò chính sách tiền tệ của NHNN.
Biện pháp của ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, chỉ trong 3 tuần đầu của tháng 2 năm 2008, các ngân hàng thương mại đã phải thực hiện đồng thời 4 quyết định về thắt chặt tiền tệ của NHNN.
1/ Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% đồng thời mở rộng them phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc.
Các ngân hàng nhà nước phải nộp 20000 tỷ cho NHNN.
2/ Phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc. Ba NHTM Nhà nước có quy mô lớn nhất mỗi ngân hàng phải mua tới 3.000 tỷ đồng. Hai NHTM cổ phần thuộc tốp đứng đầu phải mua 1.200 tỷ đồng và 1.500 tỷ đồng. Các NHTM cổ phần thuộc nhóm giữa phải mua 400 - 500 tỷ đồng/ngân hàng.
Không chỉ những vậy, các NH phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1.000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ.
Điều đặc biệt nữa, nếu như các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với NHNN để được vay tái cấp vốn thì quyết định lần này NHNN nói rõ là không được vay tái cấp vốn. Do đó các NHTM khi thiếu hụt tạm thời thanh khoản không thể sử dụng tín phiếu mình đang sở hữu để vay tái cấp vốn ngắn hạn 1-2 tuần tại NHNN. Kỳ hạn của tín phiếu lại khá dài tới 364 ngày, hay gần 1 năm.
=> Là 1 điều chỉnh mở rộng nghiệp vụ thị trường mở của NHNN nhằm thu hồi lượng tiền mặt quá lớn đồng thời thắt chặt tín dụng của các ngân hàng thương mại.
3/ Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng cao hơn trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm.
4/. NHNN ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các NHTM, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây.
=>Với 4 quyết định được coi là cứng rắn và kiên quyết nói trên trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN đã gây ra các tác động sốc và phản ứng tiêu cực tức thì của thị trường tiền tệ và hoạt động của NHTM. Có thể nói đây là 1 cú phanh gấp trong quá trình tụt dốc của nền kinh tế VN, ngăn chặn sự leo thangmaats giá dồng tiền và lạm phát
( Năm 2008 là năm thắt chặt tiền tệ.
3. Phản ứng của các ngân hàng thương mai
1/Lãi suất ngân hàng đã ở mức cực kỳ nguy hiểm.
Trước tiên thị trường tiền tệ nóng lên chưa từng thấy trong lịch sử nền kinh tế Việt Nam, vốn VND khan hiếm. Trên thị trường liên ngân hàng hầu như chỉ có người vay mà không có người cho vay. Trên thị trường tiền tệ các NHTM liên tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ. Chỉ trong có 1 tuần một số NHTM điều chỉnh lãi suất tới 2-3 lần
( Là tác dụng của vòng tròn “tín dụng. Nguồn vốn lúc này chính là chìa khóa.
( Hậu quả của vòng tròn này là cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngán hàng nhằm mục đích giữ khách hàng của mình không rút tiền gửi, chẳn hạn như:
Ngày 20/2/2008, NHTM CP Đông Nam Á (Sea Bank) công bố biểu lãi suất mới được coi như “một quả bom” dội vào cuộc chạy đua cạnh tranh tăng lãi suất trên thị trường hiện nay, với mức kỷ lục là 12%/năm.
Không chịu thua, ngày 21/2/2008 NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB) đưa ra chương trình siêu lãi suất, với mức lãi suất cao nhất lên tới 12,5%/năm cho kỳ hạn 1 tháng.
Không chịu kém, từ ngày 22/2/2008, NHTM cổ phần Sài Gòn (SCB) đưa ra mức lãi suất cao hơn, huy động vốn kỳ hạn 12 tháng với lãi suất tới 13,5%/năm.
Một số ngân hàng còn đưa ra mức lãi suất thỏa thuận tới 1.2%- 1.3%/ tháng đối với khách hàng gửi tiền lớn, hay giữ chân khách hàng rút tiền đến hàng tỷ đồng.
( Lãi suất ngân hàng đã ở mức “cực kỳ nguy hiểm”. Là nguyên nhân tiềm ẩn của cơn đổ vỡ những quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng trong thời điểm lạm phát lên đến 200%-300% như lúc này. Băng chứng là cuộc đổ vỡ của gần 6000 quỷ tín dụng và HTX tín dụng vào năm 1987-1988 ở nước ta.
2/Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất lien ngân hàng tăng cao chóng mặt.
Lãi suất liên ngân hàng ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm; ngày 18/2/2008 lập một kỷ lục mới khi lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 kỷ lục cao hơn nữa lên tới 43%/năm…
( một phản ứng dữ dội hiếm thấy và cũng được coi là rất nguy hiểm. đây là phản ứng sốc thuốc của các ngân hàng thương mại, tạo nên 1 cơn hỗn loạn tạm thời
(Các giải pháp của NHNN trước hiện tượng sốc thuốc:
● Thị trường “căng” đến mức ngày 22/2/2008. NHNN phải bơm thêm 6.000 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường mở cho một số NHTM trúng thầu, với lãi suất tới 13%/năm của kỳ hạn 14 ngày, giảm 2% so với mức 15%/năm của ngày 21/2/2008.
● Trong vòng tuần , NHNN phải bơm ra tới 39.000 tỷ đồng, mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của NHNN từ trước đến nay.
4. Nhận xét
1/ Nhược điểm
Với mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của NHNN từ trước đến nay, bằng trên 50% so với mức 61.133 tỷ đồng mua vào giấy tờ có giá ngắn hạn của cả năm 2007. Tuy nhiên hầu như chỉ có các NHTM Nhà nước, một số ít NHTM cổ phần quy mô lớn, một số chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có điều kiện đang sở hữu tín phiếu NHNN và Tín phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu đô thị TP.HCM,… thì mới có cơ hội vay với khối lượng lớn vốn đó, còn phần đông các NHTM cổ phần thì không.
Do đó các NHTM cổ phần quy mô nhỏ và trung bình phải đi vay lại trên thị trường liên ngân hàng khoản vay của các NHTM đó với lãi suất từ 30% đến 43%/năm, gấp 2 – 3 lần lãi suất “họ” vay được của NHNN. Không phải làm gì, các NHTM Nhà nước kiếm được các khoản lãi lớn. Một tình trạng vốn chạy lòng vòng đẩy lãi suất lên cao trong nền kinh tế hiện nay, rõ ràng tác động tiêu cực chung đến tăng trưởng GDP, đến hiệu quả nền kinh tế và tính an toàn của hệ thống NHTM.
Tạo ra những thiếu hụt trầm trọng về vốn của của các nhtm, làm đẩy lãi suất lên quá cao trong thời gian quá ngắn, gây hỗn loạn thị trường tạm thời.
2/ Ưu Điểm
Khi đánh giá về chính sách tiền tệ phải đứng ở góc độ của toàn dân chứ không thể chỉ đứng trên quan điểm của doanh nghiệp.
Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, chính sách tiền tệ thông qua điều hành lãi suất tiền gửi và lãi suất dự trữ bắt buộc kịp thời đã giúp ngân hàng vượt qua được thời kỳ sóng gió đó. Đến bây giờ cơ bản các ngân hàng hoạt động ổn định, lãi suất huy động và lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần đã dần trở lại gần như cuối năm 2007.
Nền tài chính quốc gia không sụp đổ, bảo đảm cho sự ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội. Đó là mối quan hệ nhân quả của chính sách tiền tệ đúng.
Chính sách tất nhiên chưa thể nói là cực chuẩn nhưng việc điều hành đã đúng quy luật của kinh tế thị trường, đó là thành công.
(Chính sách tiền tệ là thành công lớn nhất của năm 2008.
Những thay đổi của chính sách tiền tệ trong giai đoạn cuối năm 2008
Sau 1 thời gian thắt chặt tiền tệ , ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất nhằm nới lỏng thị trường.
Nguồn NHNN
Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản.
Ngày 20/10/2008, NHNN ban hành 1 loạt những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Quyết định số 2316/QĐ-NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm từ 14%/năm xuống 13%/năm. Theo đó lãi suất cho vay bằng VND của các ngân hàng thương mại trên thị trường từ ngày 21/10/2008 tối đa là 19,5%/năm, thay cho mức 21%/năm trước đó.
Quyết định số 2317/QD- NHNN về quy định cho thanh khoản trước hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu ngân hàng nhà nước bắt buộc theo nhu cầu của các tổ chức tín dụng.
Quyết định số 2318/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng, lãi suất tái cấp vốn được giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm.
Quyết định số 2321/QĐ-NHNN về lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng tăng từ 5%/năm tăng lên 10%/năm.
Từ ngày 5/11/2008 Lãi suất liên tục giảm cho đến cuối năm
Nhận xét :
Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc tăng mạnh như trên sẽ tạo một thuận lợi lớn, hỗ trợ các ngân hàng thương mại giảm bớt chi phí vốn, hỗ trợ cho mục tiêu lợi nhuận sắp tới; gián tiếp tạo điều kiện để các ngân hàng có thể xem xét tiếp tục giảm lãi suất cho vay đầu ra, hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng
Qua đó, đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định.
Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước , đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.
Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước quan tâm, theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô.
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NĂM 2009.
Tình hình chung:
Năm 2009 là năm mà chính sách tiền tệ đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế trên toàn thế giới.
Biện pháp NHNN:
Ngân hàng Nhà nước đã thực thi Chính sách tiền tệ một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường
NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%. Các loại lãi suất: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử lien ngân hang và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của ngân hang nhà nước đối với các ngân hàng đều được giảm với mức phổ biến là 1%.
( Cụ thể lãi suất tái cấp vốn là 7%/năm so với mức 8%/năm như trước đây
( Lãi suất tái chiết khấu là 5%/năm so với mức 6%/năm
( Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử lien ngân hang và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của ngân hàng nhà nước đối với các ngân hàng giảm từ 8%/năm xuống 7%/năm.
( Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn.
Ta thấy rằng không có một lời nhận xét nào xác đáng hơn khi chúng ta nhìn thẳng vào thực tế những gì đang xảy ra từng ngày từng giờ để quan sát xem chính sách tiền tệ đã có những tác động như thế nào đối với nền kinh tế, cụ thể là thông qua sự vận động của các thị trường của nền kinh tế. Sau đây là những đánh giá sự vận động của các thị trường sau khi chịu ảnh hưởng của chính sách tiền tệ:
( Ảnh hưởng đến Nền kinh tế:
Thị trường ngoại hối:
Sáu tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.
Và chính sách tiền tệ đã được sử dụng thế nào?
( Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, Ngân hang nhà nước đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hoà ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng.
( Đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu được từ phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương trong việc kiểm soát nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế.
Giá vàng tăng chóng mặt
Năm 2009 chứng kiến sự hỗn loạn giá trên thị trường vàng. Từ mức giá 18-19 triệu đồng/lượng hồi đầu năm, tới cuối năm 2009 có thời điểm giá leo lên 29 triệu đồng lượng, trước khi dao động 26-27 triệu đồng/lượng. Bỏ qua sự tác động của giá thế giới thì giá vàng Việt Nam vẫn cao hơn nhiều so với giá vàng thế giới và dường như trong những biến động này, các công ty kinh doanh vàng luôn là người hưởng lợi.
Đặc biệt, cùng với tâm lý đám đông, trở lại, giá vàng đột ngột giảm tới hơn 2 triệu đồng/lượng dù giá thế giới không giảm.
( Tỷ giá tăng đồng tiền mất giá.
Thị trường chứng khoán phục hồi mạnh
Chịu tác động mạnh mẽ từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thị trường chứng khoán đã sụt giảm xuống thấp nhất trong vòng 4 năm qua và Vn-Index lập mức đáy 235,5 điểm vào ngày 24/2.
Tuy nhiên, sau hàng hoạt các giải pháp kích thích kinh tế của Chính phủ, thị trường chứng khoán đã có những chuỗi ngày thăng hoa và Vn-Index leo một mạch lên tới gần 630 điểm hồi cuối tháng 10, trước khi giảm trở lại và trong những ngày cuối năm 2009 dao động trong khoảng dưới 500 điểm.
Theo các chuyên gia, sự sụt giảm của chứng khoán cuối năm do tâm lý nhà đầu tư bị ảnh hưởng bởi việc ngân hàng thắt chặt tín dụng, nhiều ngân hàng thu tiền về để giảm dư nợ cho vay xuống. Hiện tại, giới đầu tư kỳ vọng nhiều vào sự phục hồi của thị trường để đón đầu năm 2010, khi các ngân hàng, công ty tài chính công bố kế hoạch giải ngân theo hạn mức tín dụng của năm mới. Tuy vậy, với hạn mức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước đặt ra cho năm 2010 chỉ tăng 25% (so với mức 37% của năm 2010), sự đột phá trong giải ngân khó xảy ra và vì thế, nếu chỉ trông chờ vào luồng tiền ngân hàng thì thị trường chứng khoán khó bùng nổ.
Bất động sản sôi động
Cùng với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản Việt Nam cũng có những giai đoạn thăng hoa của quý II, quý III, trước khi trầm lắng trở lại trong quý IV.
Sự nở rộ của các dự án bất động sản cũng gắn chặt với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, với 7,6 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm, đứng thứ hai về quy mô thu hút vốn trong năm 2009. Những dự án FDI lớn về bất động sản có thể kể đến là Khu du lịch sinh thái bãi biển Rồng (Quảng Nam 4,15 tỷ USD), dự án Công ty TNHH thành phố mới Nhơn Trạch Berjaya (Đồng Nai - 2 tỷ USD); dự án Công ty TNHH một thành viên Galileo Investment Group Việt Nam có tổng vốn đầu tư 1,68 tỷ USD…
Nhận xét chung:
( Nền kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu dần ổn định và tăng trưởng trở lại. Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Tốc độ tăng trưởng GDP còn thấp; tình trạng nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán chậm được cải thiện; mức thâm hụt ngân sách cao; lạm phát có nguy cơ tăng do giá cả một số mặt hàng nhất là nguyên nhiên liệu đầu vào đang tăng và sẽ tiếp tục tăng khi kinh tế hồi phục.
Về lĩnh vực tài chính tiền tệ, cuộc đua lãi suất của các NHTM đang có xu hướng nóng dần lên, một số NHTM bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản; Tăng trưởng tín dụng có dấu hiệu “nóng”; Tình trang khan hiếm ngoại tệ chưa được giải quyết triệt để, tỷ giá ngoại tệ còn diễn biến phức tạp. Như vậy, có thể thấy nền kinh tế Việt Nam đã tạm qua giai đoạn suy giảm và đang bắt đầu hồi phục với không ít khó khăn và nhiều nguy cơ đòi hỏi phải những nhà hoạch định chính sách tiền tệ phải đối mặt để ngăn chặn.
Điều tiết mức cung tiền là nội dung cơ bản