Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời điểm xét đến để tạo nên, duy trì, vận hành và tiến hoá xã hội loài người. Các yếu tố của văn minh có thể hiểu gọn lại là di sản tích luỹ tri thức, tinh thần và vật chất của con người kể từ khi loài người hình thành cho đến thời điểm xét đến.
(Theo “Văn minh”-Bách khoa toàn thư mở)
Như vậy , Lịch sử văn minh thế giới là lịch sử phát triển của loài người qua nhiều thế kỷ, từ khi con người xuất hiện đầu tiên trên Trái Đất cho đến nay. Bắt đầu từ những hoạt động sơ khai như săn bắt, hái lượm bằng các công cụ thô sơ, thì con người, nhờ vào trí tuệ và sức sáng tạo của mình, đã tìm tòi và tạo ra nhiều thứ cần thiết cho cuộc sống của họ.Vì vậy, cũng có thể nói rằng, lịch sử những nền văn minh thế giới chính là lịch sử của trí tuệ và sức sáng tạo của loài người vậy.
Chúng ta đã biết đến về lịch sử văn minh thế giới qua các bài giảng của giáo viên. Trong mỗi thời đại, xã hội loài người nổi lên một số vùng, mà ở đó xã hội cư dân ở điểm tập hợp được các giá trị tiên tiến vượt trội trong nhiều lĩnh vực - hình thành nền văn minh. Riêng thời Cổ Đại có tám nền văn minh lớn được thống kê gồm: nền văn minh Ai Cập cổ đại, nền văn minh Hy Lạp, nền văn minh La Mã, nền văn minh Tây Á, nền văn minh Ấn Độ, nền văn minh Trung Hoa, nền văn minh Maya và nền văn minh Andes.
Tuy nhiên,nói đến lịch sử văn minh thế giới,chúng ta cũng phải nhắc đến sự đóng góp quan trọng củ những cuộc phát kiến địa lý châu Âu thời trung đại. Qua những cuộc phát kiến địa lý, con người đã bắt đầu mở rộng vã vẽ thêm vào bản đồ thế giới những vùng đất mới, những miền đất hứa. Và cũng từ đó,con người đã bắt đầu chinh phục thế giới tới những miền đất xa xôi, và kết quả xuất hiện giai cấp tư sản và vô sản. Như vậy, những cuộc phát kiến này là một trong những tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.Vậy, những tiền đề của các Phát kiến lớn về địa lý, quá trình phát kiến địa lý, và hậu quả của nó ra sao?
Thông qua bài tiểu luận “Những cuộc phát kiến địa lý châu Âu thời trung đại”, dưói sự hướng dẫn của giáo viên”Nguyễn Tuấn Bình”, chúng tôi sẽ giới thiệu và làm rõ hơn về vấn đề này.
31 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 16873 | Lượt tải: 10
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những cuộc phát kiến địa lý châu Âu thời trung đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời điểm xét đến để tạo nên, duy trì, vận hành và tiến hoá xã hội loài người. Các yếu tố của văn minh có thể hiểu gọn lại là di sản tích luỹ tri thức, tinh thần và vật chất của con người kể từ khi loài người hình thành cho đến thời điểm xét đến.
(Theo “Văn minh”-Bách khoa toàn thư mở)
Như vậy , Lịch sử văn minh thế giới là lịch sử phát triển của loài người qua nhiều thế kỷ, từ khi con người xuất hiện đầu tiên trên Trái Đất cho đến nay. Bắt đầu từ những hoạt động sơ khai như săn bắt, hái lượm bằng các công cụ thô sơ, thì con người, nhờ vào trí tuệ và sức sáng tạo của mình, đã tìm tòi và tạo ra nhiều thứ cần thiết cho cuộc sống của họ.Vì vậy, cũng có thể nói rằng, lịch sử những nền văn minh thế giới chính là lịch sử của trí tuệ và sức sáng tạo của loài người vậy.
Chúng ta đã biết đến về lịch sử văn minh thế giới qua các bài giảng của giáo viên. Trong mỗi thời đại, xã hội loài người nổi lên một số vùng, mà ở đó xã hội cư dân ở điểm tập hợp được các giá trị tiên tiến vượt trội trong nhiều lĩnh vực - hình thành nền văn minh. Riêng thời Cổ Đại có tám nền văn minh lớn được thống kê gồm: nền văn minh Ai Cập cổ đại, nền văn minh Hy Lạp, nền văn minh La Mã, nền văn minh Tây Á, nền văn minh Ấn Độ, nền văn minh Trung Hoa, nền văn minh Maya và nền văn minh Andes.
Tuy nhiên,nói đến lịch sử văn minh thế giới,chúng ta cũng phải nhắc đến sự đóng góp quan trọng củ những cuộc phát kiến địa lý châu Âu thời trung đại. Qua những cuộc phát kiến địa lý, con người đã bắt đầu mở rộng vã vẽ thêm vào bản đồ thế giới những vùng đất mới, những miền đất hứa. Và cũng từ đó,con người đã bắt đầu chinh phục thế giới tới những miền đất xa xôi, và kết quả xuất hiện giai cấp tư sản và vô sản. Như vậy, những cuộc phát kiến này là một trong những tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.Vậy, những tiền đề của các Phát kiến lớn về địa lý, quá trình phát kiến địa lý, và hậu quả của nó ra sao?
Thông qua bài tiểu luận “Những cuộc phát kiến địa lý châu Âu thời trung đại”, dưói sự hướng dẫn của giáo viên”Nguyễn Tuấn Bình”, chúng tôi sẽ giới thiệu và làm rõ hơn về vấn đề này.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Hậu kỳ trung đại là giai đoạn
Chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng suy vong và quan hệ tư bản nảy sinh.Giai đoạn nầy đưộc mở đầu bằng các cuộc phát kiến lớn về địa lý. Bởi vì phát kiến địa lý mở đường cho sự ra đời của CNTB và mở đầu cho sự ra đời của chủ nghĩa thực dân cận đại.
Ðây cũng là thời kỳ chính quyền quân chủ chuyên chế được xây dựng ở một số nước ( Anh , Pháp, Tây ban nha, Bồ đào nha,....)
Lúc nầy là giai đoạn quá độ, khi mà các đẳng cấp phong kiến cũ đã suy thóai và giai cấp tư sản đã hình thành từ tầng lớp thị dân trung đại, và khi mà giữa hai bên đối địch nhau chưa bên nào thắng bên nào, lúc ấy qúi tộc phong kiến bắt tay vời tư bản để tiêu trừ phong kiến cát cứ và phong trào nông dân đang lên mạnh.
Ðây cũng là thời kỳ bắt đầu những cuộc cách mạng về tư tưởng và văn hóa sâu sắc ( đấu tranh giữa hai ý thức hệ tôn giáo phản động và ý thức hệ tư sản tiến bộ), biểu hiện qua các phong trào cải cách tôn giáo, văn hóa phục hưng.
Trong giai đoạn này, do tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội và tư tưởng mới, pnong trào của nông dân và thị dân nổ ra rất mạnh mẽ, biến thành cuộc chiến tranh nông dân thực sự, mang tính chất hoàn toàn mới là thủ tiêu chế độ phong kiến và vương quyền.
Tất cả những điều đó đã làm cho giai đọan các thế kỷ XVI - XVII, trở thành một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử, khác về chất với giai đoạn phong kiến phát triển trước đó (thế kỷ XI-XV), cũng như với các thế kỷ tiếp theo của chủ nghĩa tư bản công nghiệp ( thế kỷ XVIII - XIX ). Qui luật những quan hệ sản xuất tất yếu phải phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất đã biểu hiện rất rõ ràng và đẩy nhanh sự tan rã của chế độ phong kiến.
2.Phát kiến
Phát kiến là tìm ra những gì còn xa lạ chưa biết tới để phục vụ cho nhu cầu khám phá khoa học,lợi ích kinh tê, tìm hiểu văn hóa, tôn giáo , hoạt động chính trị.
3. Phát kiến địa lý
Phát kiến địa lý là tìm ra những vùng đất mới,chưa từng có con người đặt chân đến hay xa lạ chưa được biết tới, để phục vụ cho nhu cầu khám phá thế giới, mở rộng thị trường, giao lưu quốc tế, trao đổi văn hóa giữa những nền văn minh phương Đông và phương Tây. Và từ đó,người ta cũng bổ sung ,hoàn chỉnh vào bản đồ địa lý thế giới.
CHƯƠNG II: NGHIÊN CỨU THỰC ĐỊA
I. Nguyên nhân và điều kiện của những cuộc phát kiến địa lý ở Châu Âu thời Trung đại.
Hoàn cảnh xã hội : Văn hoá Tây Âu thế kỉ V - X dựa trên nền tảng nền kinh tế tự cung tự cấp, sự giao lưu trao đổi rất hạn chế, văn hoá vì vậy cũng phát triển không đáng kể.
Tới thế kỉ XIV, với sự phát triển kinh tế công thương ở các thành thị, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dần dần hình thành và ngày càng lớn mạnh. Các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản không còn chịu chấp nhận những giáo lí phong kiến lỗi thời, họ vận động khôi phục lại sự huy hoàng của văn hoá Tây Âu thời cổ đại. Họ tìm thấy trong nền văn hoá cổ đại những yếu tố phù hợp với mình, có lợi cho mình để đấu tranh chống lại những trói buộc của nền văn hoá trung cổ .
Bước vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản, xã hội Tây Âu nảy sinh nhiều mâu thuẫn về kinh tế, xã hội. Một mặt, do sự phát triển của sản xuất nên nhu cầu về nguyên liệu, vàng bạc ngày một tăng.Các nước Tây Âu đòi hỏi phải mở rộng thị trường để trao đổi mua bán với các vùng trên thế giới.Thời gian này thị trường của giai cấp tư sản Tây Âu chỉ trong phạm vi Châu Âu và thông qua vùng phụ cận với Phương Đông. Việc buôn bán với phương Đông mà người Châu Âu mới tiến hành còn rất hạn chế.
Các tầng lớp vua chúa, quý tộ,c tầng lớp giàu có lúc bấy giờ cũng mong có nhiều tiền, vàng để ăn chơi hoang phí, và nhu cầu về các mặt hàng đặc sản, cao cấp có nguồn gốc từ phương Đông như tiêu, quế, trầm hương, lụa tơ tằm (dâu tằm tơ), ngà voi... tăng vọt hẳn lên. Phương Đông trong trí tưởng tượng của họ được tô vẽ thành một thế giới thần tiên giàu có trong các cuốn truyện Ngàn lẻ một đêm, Cuốn sách những chuyện kì lạ.Vàng và gia vị là đông cơ chủ yếu của việc tìm đuờng sang Phương Đông, khám phá những vùng đất mới.
Mặc khác, việc buôn bán trực tiếp với các nước phương Đông lại bị ách tắc do con đường giao lưu thương mại qua Tây Á và Địa Trung Hải bị người Thổ Nhĩ Kỳ chiếm độc quyền.Con đường xuyên qua các đại lục Châu Á để đến Trung Quốc là con đường vận chuyển tơ lụa đã bị du mục Afghanistan chiếm giữ.Trước tình hình đó, người Châu Âu phải mua lại hành hóa Phương Đông qua tay người Ả rập đắt gấp chục lần.Việc tìm ra con đường biển sang Phương Đông là một nhu cầu cấp bách của người Châu Âu.
Lúc đó người Tây Âu đã có nhiều người tin vào giả thuyết Trái Đất hình cầu. Họ cũng đã đóng được những con tàu buồm đáy nhọn, thành cao, có khả năng vượt đại dương, mỗi tàu lại đều có la bàn và thước phương vị, điều đó đã tăng thêm sự quyết tâm cho những thuỷ thủ dũng cảm.
Vào thời gian ấy, khoa học –kỹ thuật có những tiến bộ đáng kể. Các nhà hàng hải bắt đầu nghiên cứu các dòng hải lưu và hướng gió, bước đầu hiểu biết địa lí của các đại dương. Sự tiến bộ về kiến thức địa lý, thiên văn, và kỹ thuật hàng hải đã tạo ra những điều kiện đảm bảo cho những chuyến đi dài ngày trên biển.Người ta đã xác định được hướng con tàu không chỉ bằng cách quan sát chiều gió, hải lưu, màu nước hoặc chim biển mà còn bằng biện pháp xác định vị trí của tàu không cần vật chuẩn. La bàn cùng với máy đo góc thiên văn được sử dụng trong việc định hướng giữa các đại dương bao la. Trước kia người ta chỉ đóng thuyền nhỏ,thành thấp đáy bằng để đi sông và ven biển, nay cũng đã vẽ được những bản đồ và hải đồ có ghi các bến cảng. Kỹ thuật đóng tàu có những bước tiến mới: tàu có bánh lái, có hệ thống buồm lớn, có sàn và boong để có thể đặt đại bác. Những kiểu tàu mới đã xuất hiện. Ca-ra-ven trở thành loại tàu vượt đại dương đầu tiên trong lịch sử thế giới.
Những cuộc hành trình của người Châu Âu sang phương Đông và tài liệu ghi chép của một số người đi trước (như Mác-cô Pô-lô, người I-ta-li-a) cũng giúp cho các cuộc phát kiến địa lí ở các thế kỉ XV – XVI có điều kiện dễ dàng hơn.
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đều ở cực tây nam Châu Âu tiếp giáp với Đại Tây Dương, và bờ biển có nhiều thủy thủ gan dạ và một tầng lớp quý tộc thượng võ, hiếu chiến đã được rèn luyện.Hơn nữa trong khi các nước Tây âu còn đang bận rộn trong cuộc nội chiến, khôi phục chiến tranh thì Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã hoàn thành công cuộc khôi phục và có kì vọng phát triển thành một cường quốc.Giai cấp thống trị các nước này ủng hộ những chuyến đi tìm đất mới mong chiếm đựợc nhiều của cải để trở thành giàu có, họ còn đưa ra lời hứa hẹn sẽ phong vương và ban thưởng cho những ai có nhiều công trạng trong các chuyến vượt biển.
II. Tiến trình phát kiến địa lý
Cho đến trước thế kỷ XV, người châu Âu chỉ biết có 3 đại lục : Âu, Á, Phi nối liền nhau, chung quanh là biển. Nhưng đến thế kỷ XV những hiểu biết của người châu Âu được bổ sung bằng thuyết qủa đất hình tròn, nhờ vậy mà họ biết rằng muốn sang Ấn độ thì có thể đi bằng hai cách : Vòng châu Phi hoặc vượt đại dương đi về phía Tây.
Ði đầu trong việc tiến hành những cuộc thám hiểm vĩ đại vào thế kỷ XV là hai quốc gia Bồ đào nha và Tây ban nha.
1.Các chuyến đi của hoàng tử HENRY
1.1.Tiểu sử
Henri nhà hàng hải
Trong khoảng các năm từ 1385 tới năm 1435, nước Bồ Đào Nha có Vua John I cai trị. Hoàng tử Henri d'Aviz thấy mình đứng thứ ba trong thứ tự kế vị nên đã từ bỏ Chính Trị mà quay sang lãnh vực Khoa Học và Thám Hiểm. Henry đã đặt cơ sở khảo cứu trên mỏm cực nam của xứ Bồ Đào Nha và mỏm đất này như thể một bao lơn nhìn ra ngoài đại dương bát ngát
Henri thành lập trường hàng hải tại Sagres, miền Nam Portugal.Ông đã tụ tập chung quanh mình một số học giả và những người đi biển.Những người này đã giúp ông chuẩn bị những cuộc thám hiểm bằng cách thành lập các toán chuyên về hàng hải, thiên văn và họa đồ địa lý. Ông đã cho vẽ ra những bản đồ mới. Henri còn cho xây cất một đài thiên văn để giúp các nhà thủy thủ lái tàu bằng cách xác định vị trí nhờ các vì sao. Từ 1420, mỗi năm ông đều cho đoàn thám hiểm tìm hiểu đại dương, phát xuất từ Sagres đi về hướng Nam.
Các con tầu của Hoàng Tử từ phương đông trở về đã chất đầy vải lụa, hương liệu, còn nếu từ châu Phi, mang theo vàng, ngà voi và các nô lệ da đen. Nhưng mặc dù rất đắt tiền, các hàng hóa kể trên đều không được Hoàng Tử ưa thích bằng các bài tường trình về những miền đất chưa quen biết và về các vùng biển chưa từng có thuyền bè nào lui tới. Hoàng Tử Henry còn tặng nhiều tiền thưởng cho những tin tức liên quan tới bờ biển phía tây của châu Phi, tới hướng gió và các luồng nước chảy trên Đại Tây Dương. Ông chính là người đã mở đầu những chuyến đi của người Bồ Đào Nha.
"Henry, nhà Hàng Hải" mặc dù có biệt hiệu của ông như vậy nhưng ông chưa từng đi tàu mặc dù ông có tinh thần của một nhà hàng hải.
2. Cuộc hành trình các con tàu của Hoàng tử Henry
Cuộc hành trình các con tàu của Hoàng tử Henry
Người Bồ Đào Nha khám phá Châu Phi
Người Bồ Đào Nha xuôi thuyền hướng về Châu Á
Người Bồ Đào Nha đến sinh sống tại Brésil, Nam Mỹ
Năm 1415, người Bồ đã chiếm được pháo đài Ceuta trên bờ biến châu Phi, từ đó hầu như năm nào họ cũng tổ chức những đoàn thám hiểm đi về phía Nam dọc theo bờ biển châu Phi.
Khi tìm đường đi sang Ấn Độ, các thủy thủ Bồ đã khám phá ra các nhóm đảo Canaries, Madeira, Azores. Một thuyền trưởng của Hoàng Tử Henry đã tới hòn đảo lớn Canaries rồi trở về Bồ Đào Nha và mô tả lại những dòng nước chảy mạnh chung quanh đảo. Sự việc này khiến cho Hoàng Tử Henry cử Goncalo Velho, một hiệp sĩ quý phái, đi "tìm nguyên nhân của dòng nước". Như vậy "Henry, nhà Hàng Hải" là người đầu tiên tìm hiểu các giới hạn của đại dương.
Năm 1419, họ chiếm được hòn đảo Porto Xanto do người Ý tìm ra trước kia và biến đảo này thành thuộc địa.
Năm 1445, họ đến được Cap Vert (mũi Xanh).
Năm 1472, họ đến Vịnh Guinée, và bắt đầu khai thác những lớp đất có vàng, sau đó họ biến nơi nầy thành nơi buôn bán ngà voi, vàng , nô lệ và một phần gia vị. Họ đem áo dài vải gai, hạt cườm vũ khí và rượu bán cho người da đen ở đây. Khi đến vịnh Guinée, họ tưởng đây là mõm cực nam của châu Phi, nên năm 1482 họ cho xây dựng ở đây đồn Mina để cướp bóc.
Henry đã dùng những điều hiểu biết do các thủy thủ đem về để vẽ bản đồ, với mục đích sử dụng trong các cuộc thám hiểm sau. Đồng thời với những kiến thức ngày một nhiều, cách đóng tầu thuyền cũng tiến bộ. Một thứ tầu biển mới được chế tạo có tên là Caravelle, đã cho phép các thủy thủ Bồ Đào Nha có thể đi xa hơn trước.
Tàu Caravelle
Từ năm 1416, mỗi năm đều có một đoàn thám hiểm ra đi nhưng mỗi đoàn chỉ đi được một quãng ngắn rồi quay trở về.Năm sau, trên cơ sở kết quả đã thu được, đoàn khác lại đi xa hơn một ít.Những tiến bộ đó thật chậm chạp, Người Bồ Đào Nha phải mất tới 82 năm mới đến được Ấn Độ (1416-1498).Trong các chuyến đi đó có hai cuộc thám hiểm lớn là của B.Dias (1450-1500) và Vasco da Gama(1469-1524).
2. Các chuyến đi của Bartolomeu Dias(1450 - 1500)
a.Giới thiệu
Bartolomeu Dias (1450 - 1500), nhà hàng hải Bồ Đào Nha.Năm 1457, Bartolomeu Dias được sinh ra ở Bồ Đào Nha.Bartolomeu Dias đến từ một gia đình quý tộc Bồ Đào Nha và cha của ông tham dự tòa án Bồ Đào Nha.Người ta tin rằng Dias đến từ một gia đình của các thủy thủ và nhà thám hiểm bao gồm Joao Dias người đi thuyền quanh Cape Bojador năm 1434 và Diniz Dias người phát hiện ra các quần đảo Cape Verde.
Bartolomeu Dias đã được giáo dục tốt nhất và với trình độ của mình Ông đã có thể được dạy một số ngôn ngữ, vật lý, hình học, toán học và thiên văn học
Ông là thành viên của tòa án Bồ Đào Nha hoàng gia và tổ chức tiêu đề của Sailing Master của con người của cuộc chiến Sao Cristovao Bồ Đào Nha (San Christovao).
b.Cuộc hành trình của Bartolomeu Dias
Ngày10 tháng 10 Năm 1486: Vua John II của Bồ Đào Nha bổ nhiệm Bartolomeu Dias vào một đoàn thám hiểm để lãnh đạo để đi thuyền vòng quanh mũi phía nam của châu Phi với hy vọng tìm ra một tuyến đường thương mại sang Ấn Độ. Bartholomeu Dias, người đã từng trông coi các kho của hoàng gia ở Lisbon và đã đi một chuyến tàu caravel xuống bờ biển châu Phi. Sau mười tháng chuẩn bị lâu ngày, tổ chức kỹ lưỡng, với vốn đầu tư lớn vào tháng bảy hoặc đầu tháng Tám, 1487, với hai caravels vũ trang, mỗi caravels năm mươi tấn và một tàu cung cấp Dias chuẩn bị rời Lisbon.Dias mang theo sáu người châu Phi đã từng có mặt trong các chuyến thám hiểm Bồ Đào Nha trước đây. Dias cho họ ăn uống tử tế, cho mặc đồ theo kiểu người Âu, rồi rải họ ở một số nơi dọc bờ biển, cùng với những mẫu hàng hóa như vàng, bạc, gia vị và các sản phẩm châu Phi khác, để họ dùng kiểu "buôn bán câm" chỉ cho những người bản xứ biết người Bồ Đào Nha cần những loại hàng hóa nào. Sau khi đã rải hết những sứ giả châu Phi này, các con tàu của Dias gặp phải một cơn bão chuyển thành một cuồng phong dữ dội. Những con tàu phải hạ buồm chạy trước cơn gió bắc trên biển sóng lớn trong 13 ngày và bị gió đưa đi xa ra ngoài khơi rồi xuống phía nam của biển cả. Đoàn thủy thủ vừa mới bị sức nóng thiêu đốt của xích đạo, giờ đây trở thành hoảng loạn. "Và vì các tàu khá nhỏ và biển thì càng lúc càng lạnh hơn và không giống như lúc họ còn ở Guinea,... họ chỉ nằm trên tàu chờ chết". Nhưng cơn bão đã qua đi và Dias căng tất cả các cánh buồm và quay về phía đông, nhưng sau nhiều ngày vẫn không thấy đất đâu cả. Quay lên phía bắc 150 hải lý, ông bất ngờ thấy những dãy núi cao. Ngày 3 tháng 2, 1488, ông bỏ neo ở vịnh Mossel, nằm vào khoảng 30 dặm phía đông chỗ ngày nay gọi là Mũi Town. Có vẻ do ý trời, cơn bão đã thực hiện được điều mà không một kế hoạch nào có thể thực hiện, vì nó đã đưa Dias vòng qua mũi cực nam của châu Phi. Khi đoàn người thám hiểm lên bờ, họ bị dân bản xứ ném đá đuổi đi, Dias dùng cung bắn chết một người bản xứ khiến họ phải bỏ đi. Ông đi theo bờ biển, đi thêm ba trăm dặm nữa đến cửa của Great Fish River và vào vịnh Algoa.
Dias muốn đi tiếp vào Ấn Độ Dương, để hoàn thành niềm mong đợi của nhiều thế kỷ, nhưng đoàn thủy thủ không muốn. "Mệt mỏi và kinh hoàng vì biển cả dữ dội mà họ đã đi qua, tất cả đều cùng nhau bắt đầu lẩm bẩm kêu ca và yêu cầu không được đi xa thêm nữa". Lương thực còn rất ít và chỉ có cách quay nhanh trở về tàu lương thực còn ở xa tít phía sau. Sau khi hội ý với các thuyền trưởng và mọi người đều ký vào quyết định quay trở về, Dias đã đồng ý.
Trên đường về, họ trở lại chiếc tàu lương thực mà họ đã để lại cách đây chín tháng với 9 người trên tàu. Chỉ còn ba người sống sót và một trong ba người này "quá vui khi gặp lại các bạn nên đã chết một cách đột ngột, vì đã quá đuối sức vì bệnh tật". Người ta dỡ hàng từ chiếc tàu lương thực rồi đốt bỏ nó, chỉ còn hai con tàu caravel quay về Bồ Đào Nha vào tháng 12 năm 1488, sau mười sáu tháng và mười bảy ngày lênh đênh trên biển.Khi hai chiếc tàu caravel tan nát vì thời tiết về tới cảng Lisbon, Christopher Colômbô đã có mặt ở đó để đợi đoàn thám hiểm. Dạo ấy Christopher Colômbô chưa có tiếng tăm gì. Ông rất quan tâm đến kết quả chuyến đi của Dias. Tháng12 năm 1488, Dias trở về Lisbon.Sau khi vắng mặt,Ông đã thể hiện được cách để Vasco da Gama ông năm 1497 mà đi kèm, nhưng ở một vị trí cấp dưới, như xa như là Cape Verde Islands, Việc phát hiện ra các đoạn xung quanh châu Phi là quan trọng bởi vì, lần đầu tiên, người châu Âu có thể thương mại trực tiếp với Ấn Độ và các phần khác của châu Á, bỏ qua các tuyến đường bộ qua Trung Đông.
Dias ban đầu được đặt tên là Mũi Hảo Vọng là "Mũi bão" (Cabo das Tormentas). Sau đó nó được đổi tên thành bởi vua John II của Bồ Đào Nha đến Cape of Good Hope (Cabo da Boa Esperança) bởi vì nó đại diện cho việc mở một tuyến đường phía đông.và với các thông tin vô giá cho chuyến đi thăm dò tương lai của Bồ Đào Nha. Những cuộc thám hiểm Bồ Đào Nha đã được lãnh đạo bởi Christopher Columbus , Vasco da Gama và Pedro Alvares Cabral tất cả những người sử dụng các bảng xếp hạng do Bartolomeu Dias.Sử dụng kinh nghiệm của mình với du lịch thám hiểm, Dias đã giúp trong việc xây dựng các Gabriel São và tàu anh em của mình, Rafael Sao đã được sử dụng bởi Vasco da Gama đi vòng quanh Cape và tiếp tục con đường đến Ấn Độ. Dias chỉ tham gia vào chân đầu tiên của chuyến đi da Gama, cho đến quần đảo Cape Verde . Sau đó ông bị một trong các thuyền trưởng của chuyến thám hiểm Ấn Độ thứ hai, đứng đầu là Pedro Alvares Cabral . Đội tàu này đạt tới trước bờ biển của Brazil , có tính sở hữu của nó trong 1500, và sau đó tiếp tục hướng về phía đông tới Ấn Độ. Dias thiệt mạng gần Cape of Good Hope rằng ông presciently có tên là Cape của bão. Bốn tàu gặp phải một cơn bão lớn đi mũi và bị mất, bao gồm cả Dias, ngày ngày 29 tháng 5 năm 1500. Dias không bao giờ được vua thưởng công xứng đáng và ông trở thành con người của Kỷ Nguyên Khám Phá của Bồ Đào Nha bị quên lãng. Ông có trông coi việc đóng những tàu cho Vasco da Gama, nhưng không dự phần trong chuyến hành trình cao điểm của Gama tới Ấn Độ.
Người ta đã trông chờ công trình thám hiểm của Dias được tiếp nối mau chóng, nhưng nó đã bị trì hoãn do những vấn đề nội bộ ở Bồ Đào Nha, do việc kế vị ngôi vua bị gián đoạn và nhất là do cuộc tranh giành xảy ra khiến Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đang đứng bên bờ của một cuộc chiến.
3. Vasco da Gama(C.1460-1524)
Vasco da Gama
(
Vasco da Gama là bá tước thứ nhất của Vidigueira , là một nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha, một trong những nhà hàng hải châu Âu thành công nhất của Kỷ nguyên khám phá và là thuyền trưởng hạm đội đầu tiên đi thẳng từ châu Âu đến Ấn Độ.
3.1. Tiểu sử
Vasco da Gama sinh khoảng năm 1460[1] hoặc 1469[2] tại Sines ở bờ biển phía Tây Nam của Bồ Đào Nha, có lẽ là trong một ngôi nhà gần nhà thờ Nossa Senhora das Salas.
Cha của Vasco da Gama là Estêvão da Gama, một kỵ sĩ trong đội gia binh của Công tước xứ Viseu, Dom Fernando vào khoảng những năm 1460. Dom Fernando cử ông làm Alcaide-Mór (thủ hiến) xứ Sines và cho phép ông giữ lại một phần thuế thu từ việc làm xà phòng ở Estremoz. Estêvão da Gama kết hôn với Quý cô Isabel Sodré, con gái của João Sodré.
Người ta biết rất ít cuộc đời Vasco da Gama khi còn