Đề tài Tìm hiểu những đổi mới trong cuộc sống khuyến khích đầu tư nước ngoài của Việt Nam

Với những thành tựu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và những kết quả đã đạt được trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Chúng ta phảI thừa nhận sự đóng góp không nhỏ từ các nguồn đầu tư bên ngoài cho sự phát triển đó. Để hoàn thành đề án chuyên ngành của mình, em xin chọn đề tài “tìm hiểu những đổi mới trong cuộc sống khuyến khích đầu tư nước ngoài của Việt Nam” nhằm làm rõ hơn sự cần thiết của việc thu hut các nguồn vốn từ các nhà đầu tư nhỏ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta hiện nay, trong 5 năm phát triển kinh tế - xã hội 2006 – 2010, là thời kỳ quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Và trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt chúng ta chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO với việc mở cửa thị trường có lộ trình rất chặt chẽ. Do đó nhiệm vụ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Theo đó vấn đề thu hút vốn đầu tư để thực hiện sự chuyển đổi đó càng trở nên quan trọng, đòi hỏi chúng ta phải có một chiến lược thu hút vốn đầu tư hợp lý hơn, hấp dẫn hơn.

doc26 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1610 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu những đổi mới trong cuộc sống khuyến khích đầu tư nước ngoài của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. PHẦN MỞ ĐẦU LỜI GIỚI THIỆU Với những thành tựu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và những kết quả đã đạt được trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Chúng ta phảI thừa nhận sự đóng góp không nhỏ từ các nguồn đầu tư bên ngoài cho sự phát triển đó. Để hoàn thành đề án chuyên ngành của mình, em xin chọn đề tài “tìm hiểu những đổi mới trong cuộc sống khuyến khích đầu tư nước ngoài của Việt Nam” nhằm làm rõ hơn sự cần thiết của việc thu hut các nguồn vốn từ các nhà đầu tư nhỏ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta hiện nay, trong 5 năm phát triển kinh tế - xã hội 2006 – 2010, là thời kỳ quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Và trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt chúng ta chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO với việc mở cửa thị trường có lộ trình rất chặt chẽ. Do đó nhiệm vụ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Theo đó vấn đề thu hút vốn đầu tư để thực hiện sự chuyển đổi đó càng trở nên quan trọng, đòi hỏi chúng ta phải có một chiến lược thu hút vốn đầu tư hợp lý hơn, hấp dẫn hơn. II, Tìm hiểu, phân tích Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) được hiểu một cách tổng quát là việc thực hiện những công việc hướng tới việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian dài, bao gồm: các kế hoạch, các hoạt động định hướng, từ việc xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách đầu tư, cải cách hành chính, xúc tiến đầu tư, tham gia các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế… Tuy nhiên trong sự giới hạn của một đề án tôi chỉ xin lựa chọn, xuy nghẫm và đánh giá về 1 số những thay đổi được coi là nổi bật nhất trong chiến lược thu hút vốn ĐTNN. Và để thấy được những đổi mới trong chiến lược thu hút vốn ĐTNN của Việt Nam. Trước hết chúng ta hãy nhìn lại những kết quả đã đạt được của chủ trương thu hút vôn ĐTNN những năm qua. 1, Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài đến cuối năm 2004 - đầu năm 2005 1.1, Kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến năm 2004 Tính đến cuối năm 2004, cả nước đã cấp giấy phép đầu tư cho 5424 dự án ĐTNN với tổng số vốn đăng ký đạt 54,8 tỷ USD. Trong đó có 4376 dự án FDI còn hiệu lực tổng vốn đầu tư đăng ký là 41 tỷ USD. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiêm 66,9% về số dự án và chiếm 57,2% tổng số vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ với 19,5% về số dự án và 35,8% về vốn đầu tư đăng ký, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 13,6% số dự án và chiếm 7% vế vốn đầu tư đăng ký. Trong số 64 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào VN Sigapore đứng đầu với 6,6% về số dự án và 19% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp đó là Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng kông. Các kiều bào ở nước ngoài cũng đã tham gia đầu tư nhưng với mức đầu tư còn rất khiêm tốn: 63 dự án vớI vốn đầu tư đăng ký 208,67 triệu USD chỉ bằng 0,5% tổng vốn đầu tư, quy mô bình quân của một dự án thấp hơn quy mô bình quân của cả nước. Số vốn này chủ yếu là từ CHLB Đức, LB Nga và Pháp. Các dự án đầu tư vẫn tập trung ở một số thành phố lớn có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi. TP.HCM dẫn đầu cả nước, chiếm 31.2% số dự án và 26% tổng vốn đăng ký. Hà Nội đứng thứ hai , chiếm 11% số dự án và 11,1% tổng số vốn đăng ký. Tiếp đó là Đồng Nai và Bình Dương. Chỉ tính riêng vùng kinh tế trọng điểm phía nam (TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa-Vũng Tàu) đã chiếm 50% tổng vốn ĐTNN đăng ký của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội, Hải Dương, HảI Phòng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh) chiếm 26,35 tổng vốn ĐTNN đăng ký của cả nước. Tính đến hết năm 2004 cả nước có khoảng 1400 dự án ĐTNN vào KCN, KCX còn hiệu lực (không kể các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN) vớI tổng vốn đăng ký 11,145 tỷ USD tương đương 26,7% tổng vốn ĐTNN của cả nước. 1.2, Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI Tổng vốn đầu tư của các dự án FDI thực hiện từ năm 1988 đến hết năm 2004 đạt được trên 28 tỷ USD (gồm cả vốn thực hiện của các dự án đã hết hạn hoặc giải thể trước thời hạn). Trong đó vốn nước ngoài khoảng 25 tỷ USD, chiếm 89% tổng vốn thực hiện. Tính riêng cho thời kỳ 1991-1995 vốn thực hiện của các dự án FDI đạt 7,15 tỷ USD, thời kỳ 1996-2000 đạt 13,4 tỷ USD. Và tính cho bốn năm 2001-2004, vốn thực hiện các dự án FDI đạt 8,7 tỷ USD bằng 80% mục tiêu đề ra của nghị quyết chính phủ số 29/2001/MQ-CP cho 5 năm 2001-2005 Trọng quá trình hoạt động, nhiều dự án triển khai sản xuất – kinh doanh có hiệu quả đã tăng vốn đăng ký, mở rộng quy mô sản xuất. Từ năm 1988 đến cuối năm 2004 đã có khoảng 2100 lượt đăng ký vốn của các dự án, với số vốn tăng thêm đạt trên 9 tỷ USD. Thời gian từ 2001-2004 các dự án đã bổ sung gần 4 tỷ USD, bằng 47,6% tổng vốn đầu tư đăng ký mới. Tính đến hết năm 2004, các dự án ĐTNN đã đạt doanh thu hơn 75 tỷ USD (không kể dầu khí), riêng 4 năm từ 2001-2004 đạt 51tỷ USD . Giá trị xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt trên 30 tỷ USD, tính riêng 4 năm 2001-2004 đạt 18 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN tăng nhanh , với mức tăng bình quân trên 20%/ năm đã làm cho tỷ trọng xuất khẩu của khu vực này tăng liên tục qua các năm: năm 2001 là 24,45, năm 2002 là 27,5%, năm 2003 là 30,6%, năm 2004 là 31,4% Đến hết năm 2004, khu cực kinh tế có vốn ĐTNN thu hút 765 nghìn lao động trực tiếp và hơn 1,5 triệu lao động gián tiếp. Đến hết năm 2004, đã có 39 dự án kết thúc đúng thời hạn với tổng vốn đăng ký là 658 triệu USD, và 1009 dự án giải thể trước thời hạn vớI tổng số vốn đăng ký khoảng 12,3 tỷ USD chiếm 23% tổng vốn đăng ký. Số dự án giải thể trước thời hạn chiếm 18,6% tổng số dự án được cấp phép 1.3, Đánh giá những mặt tích cực, hạn chế của hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của thời kỳ 1998-2004 1.3.1,Những mặt tích cực đã đạt được Sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực năm 1997, dòng vốn ĐTNN vào VN liên tục tăng. Năm 2002 vốn đăng ký mới đạt 2,8 tỷ USD. Năm 2003 đạt 3,1 tỷ USD, năm 2004 tăng lên 4,2 tỷ USD. ĐTNN đã bổ xung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng các nguồn lực trong nước tạo thế và tạo lực cho nền kinh tế. Tỷ lệ đóng góp của khu vực ĐTNN trong GDP tăng dần qua các năm. Năm 1995 là 6,3%, năm 1998 là 10,1%, năm 2001 là 13,1% năm 2003 tăng lên 14,3%. Hoạt động của các doanh nghiệp FDI đã góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu, tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường ngoài nước. Kim ngạch xuất khẩu của khu vự đầu tư nước ngoằi tăng nhanh. Trong thờI kỳ 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ USD (không kể tớI lĩnh vực dầu khí), trong 3 năm 2002-2004 xuất khẩu của khu vực này đạt 14,6 tỷ USD. Các dự án ĐTNN góp phàn mở rộng các hoạt động sản xuất - kinh doanh trong nước, thúc đẩy sự phát triển của các dịch vụ, đặc biệt là lĩnh vực khách sạn, du lịch, các dịch vụ thu đổi ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, tư vấn kỹ thuật – công nghệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế. Các hoạt động thu hút vốn ĐTNN đã bắt đầu chú trọng nhiều hơn đến chất lượng, thu hút những dự án có hàm lượng công nghệ cao. Kết hợp các thu hút nhiều lao động, tạo điều kiện phát triển ngồn năng lực. Việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất đã góp phần nâng cao tính quy hoạch của việc xây dựng và triển khai thực hiện các dự án đầu tư nói chung và các dự án ĐTNN nói riêng. 1.3.2, Những hạn chế và tồn tại. Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được trong hoạt động thu hút và triển khai thực hiện các dự án ĐTNN tại VN vẫn còn những mặt hạn chế cần khắc phục. Vốn đầu tư đăng ký tuy tăng nhưng vẫn còn ở mức thấp, vốn đăng ký mới năm 2004 đạt 4,1 tỷ USD chỉ bằng khoảng 50% vốn đăng ký mới của năm 1996. Cơ cấu vốn ĐTNN cho các ngành và các địa phương chưa hợp lý, chưa đạt được tính định hướng và chiến lược lâu dài Dự án đầu tư từ các nước có thế mạnh về công nghệ nguồn như: Mỹ, Nhật, EU tăng chậm Năng lực của các doanh nghiệp phụ trợ trong nước trong việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng. Linh kiện cho các doanh nghiệp FDI còn rất hạn chế, không tạo được ưu thế nội hoá chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa hai khu vực này. Hạn chế về khả năng góp vốn của bên VN trong các liên doanh, thiếu cơ chế huy động các nguồn lực khác nhau để góp vốn liên doanh của nước ngoài. Thiếu sự đồng bộ về thực thi chính sách thu hút đầu tư và quản lý hoạt động ĐTNN giữa các cấp, ngành và các địa phương dẫn đến hiện tượng “phá rào” trong thu hút đầu tư nước ngoài. Có nhiều dự án FDI không đảm bảo tiến độ triển khai thực hiện dự án, có những dự án triển khai chậm tới 5, 10 năm như dự án công ty liên doanh xi măng Phúc Sơn thời gian triển khai chậm đến 5 năm. Tỷ lệ dự án đổ bể, giải thể trước thời hạn còn rất lớn chiếm khoảng 26% so với vốn đăng ký mới hàng năm Vấn đề liên quan đến quyền sử dụng đất, thuê đất, giải phóng mặt bằng đang là những khó khăn đối với nhà ĐTNN trong việc triển khai các dự án. Các văn bản pháp luật về ĐTNN còn chưa đầy đủ, một số thì chưa rõ ràng. Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, một số nơi ở một số ban ngành còn có thái độ thiếu hợp tác Nguồn lao động chưa đáp ứng được các yêu cầu tuyển dụng của các nhà ĐTNN. Cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp FDI còn thiếu kiến thức chuyên môn, không nắm vững luật pháp, yếu kém về ngoại ngữ và thiếu kinh nghiệm thương trường. Quy định quá chặt về tỷ lệ nội địa hoá và tỷ lệ xuất khẩu 2, Số liệu thống kê về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2006 2.1. Kết quả thu hút vốn đầu tư Trong tháng 6/2006 cả nước co 58 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tông vốn đầu tư đăng ký là 245 triệu USD. Tính chung, trong 6 tháng đầu năm đã có thêm 339 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư đăng ký là 2,26 tỷ USD, tăng 5% về số dự án và tăng 21% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Các dự án cấp mới tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp và xây dựng, chiếm 72,78% về số dự án và 62,7% tổng vốn đăng ký; nông-lâm-ngư nghiệp chiếm 4,59% về số dự án và 0,55% tổng vốn dăng ký và ngành dịch vụ chiếm 22,63% về số dự án và 36,74% tổng vốn đăng ký. TP.HCM do thu hút được một số dự án lớn, trong đó có dự án Intel với vốn đầu tư 605 triệu USD, đã vươn lên đứng đầu trong cả nước về thu hút ĐTNN trong 6 tháng đầu năm, chiếm 31,76% tổng vốn đăng ký của cả nước; Hà Nội đứng thứ 2 chiếm 22,36% và tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đứng thứ 3 chiếm 14,04% và Hải Dương đứng thứ 4 chiếm 5,6% tổng vốn đăng ký của cả nước. Trong 6 tháng đầu năm có 30 nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại VN. Do dự án của Tập đoàn Intel (gốc từ Hoa Kỳ) nhưng chủ đầu tư đăng ký tại Hồng Kông nên Hồng Kông dẫn đầu trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại VN chiếm 27,79% tổng vốn cấp mới; tiếp theo la Hàn Quốc chiếm 21,025 tổng vốn cấp mới; và Hoa Kỳ đứng thứ 3, chiếm 20,05% tổng vốn cấp mới; Nhật Bản đứng thứ 4 chiếm 14,28% tổng vốn cấp mới. Quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án trong 6 tháng đầu năm đạt 6,7 triệu USD/dự án. Đặc biệt, trong số các dự án mới cấp phép có một số dự án có quy mô vốn đầu tư đăng ký lớn là: (1) Công ty Intel vốn đầu tư 605 triệu USD; (2) Công ty Tây Hồ Tây vốn đầu tư 314,1 triệu USD; (3) Công ty Winvest Investmnt vốn đầu tư 300 triệu USD; (4) Khu du lịch và giải trí quốc tế đặc biệt Silver shores-Hoàng Đạt tại Đà Nẵng, vốn đầu tư 86 triệu USD; (5) Công ty Panasonic Communication vốn đầu tư 76,36 triệu USD; (6) Công ty kho xăng dầu Vân Phong vốn đầu tư 60 triệu USD; (7) Công ty Panasonc Electronic vốn đầu tư 50 triệu USD. Trong tháng 6 có 37 lượt dự án tăng vốn với vốn tăng thêm là 188 triệu USD. Tính chung, 6 tháng đầu năm có 182 lượt dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sả xuất với số vốn tăng thêm 585 triệu USD, bằng 85,4% về số dự án và 67,8% về vốn so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả dự án mới và tăng vốn, trong 6 tháng đầu năm tổng vốn đăng ký cấp mới đạt 2.845 triệu USD, tăng 4,2% sao với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế tình hình ĐTNN từ 1988 đến 6/2006: Tính từ 1988 đến hết 6 tháng đầu 2006, cả nước đã cấp giấy phép đầu tư cho trên 7.550 dự án ĐTNN với tổng vốn cấp mới 68,9 tỷ USD, trong đó có 6.390 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 53,9 tỷ USD, vốn thực hiện (của các dự án còn hoạt động ) đạt trên 28 r\tỷ USD. (Nếu tính cả các dự án đã hết hiệu lực thì vốn thực hiện đạt 36 tỷ USD). Phân theo ngành: Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm 67,7% về số dự án và 61,2% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ chiêm 19,7% về số dự án và 31,7% về số vốn đầu tư đăng ký ; lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 12,5% về số dự án và 7,1% về vốn đầu tư đăng ký. Phân theo hình thức đầu tư: Hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 75,4% về số dự án và 53,1% về tổng vốn đăng ký. Liên doanh chiếm 21,4% về số dự án và 36% về tổng vốn đăng ký; Số còn lại thuộc lĩnh vực hợp doanh, BOT, Công ty cổ phần và Công ty quản lý vốn. Phân theo nước: Đã có 74 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại VN, trong đó các nước châu Á chiếm 76,5% về số dự án và 69,8% vốn đăng ký; các nước châu Âu chiếm 10% về số dự án và 16,7% vốn đăng ký; các nước châu Mỹ chiếm 6% số dự án và 6% vốn đăng ký, riêng Hoa Kỳ chiếm 4,55 về số dự án và 3,7% vốn đăng ký; số còn lại là các nước ở khu vực khác. Riêng 5 nền kinh tế đứng đầu trong đầu tư vào VN là Đài Loan, Sigapore, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng Kông đã chiếm 58,3% về số dự án và 60,6% tổng vốn đăng ký. Việt kiều từ 21 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau chủ yếu là từ CHILE, Đức, LB Nga và Pháp đã đầu tư 17 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 513,88 triệu USD, hiện còn 108 dự án đang hoạt động với tổng vốn đăng ký 382,8 triệu USD chỉ bằng 0,7% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước. Phân theo địa phương: Các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế trọng điểm vẫn là những địa phương dẫn đầu thu hút ĐTNN theo thứ tự như sau: TP.HCM chiếm 31,28% về số dự án; 24,35% tổng vốn đăng ký và 21,7% tổng vốn thực hiện; Hà Nội chiếm 10,83% về số dự án; 18,36% tổng vốn đăng ký và 12,1% tổng vốn thực hiện; Đồng Nai chiếm 11,47% về số dự án; 16,3% tổng vốn đăng ký và 14,1% tổng vốn thực hiện; Bình Dương chiếm 17,87% về số dự án; 9,77% tổng vốn đăng ký và 6,6% tổng vốn thực hiện; Riêng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa –Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Phước, Long An) chiếm 58,2% tổng vốn ĐTNN đăng ký và 49,6% vốn thực hiện của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương,Vĩnh Phúc,Quảng Ninh, Hưng Yên, Hà Tây, BẮc Ninh) chiếm khoảng 265 tổng vốn ĐTNN đăng ký và 28,7% vốn thực hiện của cả nước. Cho tới nay, các dự án ĐTNN đầu tư vào các KCN, KCX (không kể các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng KCN) còn hiệu lực, chiếm 33,8% về số dự án và 35,5% tổng vốn đầu tư đăng ký. 2.2.Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI Trong tháng 6/2006 nhiều dự án đã được cấp phép tích cực triển khai thực hiện, ước tính vốn thực hiện của các doanh nghiệp ĐTNN đạt khoảng 360 triệu USD, đưa tổng vốn thực hiện trong 6 tháng đầu năm 2006 lên 1,85 tỷ USD, tăng 17,7% so với cùng kỳ năm 2005, bằng 50% kế hoạch ban đầu (3,7 tỷ USD). Doanh thu của các doanh nghiệp ĐTNN trong tháng 6/2006 ước đạt khoảng 2,65 tỷ USD, đưa tổng doanh thu trong 6 tháng đầu năm ước đạt 12,45 tỷ USD tăng 16,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng 6/2006 xuất khẩu của khu vực vốn ĐTNN (Trừ dầu thô) ước đạt 1,2 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm ước đạt 6,6 tỷ USD tăng 41,4% so với cùng kỳ. Nếu tính cả dầu thô thì tổng giá trị xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm đạt 10,85 tỷ USD, tăng 27,8% so với cùng kỳ. Nhập khẩu của các doanh nghiệp ĐTNN trong tháng 6/2006 ước đạt 1,4 tỷ USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm đạt khoảng 7,5 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ. Trong 6 tháng đầu năm, khối doanh nghiệp ĐTNN đã thu hút thêm hơn 10.000 lao động đưa tổng số lao động trong khu vực FDI cho đến nay khoảng 1.067 triệu lao động. Tuy nhiên trong 6 tháng đầu năm đã có 18 dự án bị rút giấy phép trước thời hạn với tổng vốn đăng ký 65,3 triệu USD. 3, Những đổi mới trong chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhìn từ góc độ khắc phục những hạn chế của thời kỳ 1988-2004 3.1, Những đổi mới trong chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay. Với lỗ lực cải thiện môi trương đầu tư kinh doanh của chúng ta trong những năm qua, các hoạt động thu hút vốn ĐTNN đã dần mang tính kế hoạch tổng thể. Hiện nay việc tổ chức thực hiện các hoạt động thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã đạt được tính kế hoạch cao hơn, có tính định hướng lâu dài của một chiến lược. Đã có sự kết hợp đồng bộ thống nhất mục tiêu chung của các hoạt động thu hút ĐTNN. Đó là việc xây dựng và thông qua 20 luật, đặc biệt là luật doanh nghiệp, luật đầu tư chung đã được ban bố và có hiệu lực từ ngày 1/7/2006, ban hành những quy định mới trong phân cấp quản lý đầu tư, tham gia các liên kết kinh tế khu vực và đẩy nhanh tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, cũng như các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư… Điều mà trước nay các nhà ĐTNN, các doanh nghiệp FDI lo ngại là hệ thống luật của chúng ta chưa hoàn thiện, thiếu rõ ràng và thiếu tính ổn định, còn phân biệt đối xử giữa nhà ĐTNN với nhà đầu tư trong nước, giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp khác. Thì nay vói việc ban bố luật doanh nghiêp, luật đầu tư chung có hiệu lực từ ngày 1/7/2006 đã ra được một “sân chơi bình đẳng” và đảm bảo tính “có thể tiên đoán” được cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp. Những quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư đã đươc thủ tướng chính phủ ban hành theo hướng mở rộng quyền quản lý và giao trách nhiệm cho các địa phương, các ban quản lý KCN, KCX và khu kinh tế. Chẳng hạn trước đây các dự án đầu tư có vốn đến 5 triệu USD được giao cho các địa phương cấp phép. TP.HCM hay Hà Nội nay đã được quyết định các dự án có vốn đầu tư lớn hơn. Ban quản lý các KCN được quyết định các dự án có vốn đầu tư trên 40 triệu USD. Nhờ vậy mà việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện các dự án và hoạt động của các doanh nghiệp. Một số địa phương đã thí điểm cấp phép qua mạng với những qui trình đơn giản và thời gian cấp phép nhanh chóng. Luật đầu tư mới cũng qui định các thủ tục đăng ký cấp phép đầu tư với quy trình đơn giản và thời hạn ngắn với cơ chế hậu kiểm, chỉ xem xét, tiền kiểm định với những dự án có số vốn đăng ký đến 20 triệu USD. Đi đôi với việc tăng cường quyền quản lý đầu tư cho các địa phương, luật cũng qui định chặt chẽ hơn trong việc thực thi các chính sách ĐTNN nhằm tạo nên sự liên kết, thống nhất giữa các địa phương thơ gian trước. Luật cũng đảm bảo những ưu đãi cho các nhà đầu tư trong trường hợp có sự thay đổi luật pháp, chính sách.Cụ thể tại điều 11 có ghi: Trường hợp pháp luật, chính sách mới được ban hành có các quyền lợi ưu đãi cao hơn so với quyền lợi, ưu đãi mà nhà đầu tư đã được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được hưởng các quyền lợi, ưu đãi theo quy định mới kể từ ngày pháp luật, chính sách mới đó có hiệu lực. Trường hợp pháp luật, chính sách mới ban hành làm ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích hợp pháp mà nhà đầu tư đã được hưởng trước khi quy định của pháp luật, chính sách đó có hiệu lực thì nhà đầu tư được đảm bảo hưởng các ưu đãi như quy định tại. Giấy chứng nhận đầu tư hoặc được giải quyết bằng một, một số hoặc các biện pháp sau đây: Tiếp tục hưởng các quyền lợi, ưu đãi; Được trừ thiệt hại vào thu nhập chịu thuế; Được điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự án; Được xem xét bồi thường trong một số trường hợp cần thiết. Căn cứ vào quy định của pháp luật và cam kết trong điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định cụ thể về việc bảo đảm lợi ích của nhà đầu tư do việc thay đổi pháp luật, chính sách ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của nhà đầu tư. Về quy định loại hình thành doanh nghiệp đối với các dự án ĐTNN. Luật doanh nghiệp tạo điều kiện cho các nhà ĐTNN quyền tự chủ lụa chọn loại hình doanh nghiệp để ki
Luận văn liên quan