Phát triển Nông sản xuất khẩu (NSXK) đã và đang là thế mạnh và là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Điều đó phù hợp với xu hướng chung của các nước đang phát triển: Trong thời kỳ "tạo đà" phần lớn các nước dựa vào việc khai thác các thế mạnh "tự nhiên" để tích lũy cho nền kinh tế. Trong những năm 90, nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã chiếm tỷ lệ trên dưới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu. Vậy mà trong những năm gần đây, tuy sản lượng xuất khẩu cũng như xuất khẩu nông sản của Việt Nam tăng mạnh nhưng kim ngạch xuất khẩu lại có xu hướng giảm sút.
Ngay tại thị trường EU, một thị trường đầy tiềm năng mà Việt Nam mới thâm nhập trong những năm gầy đây, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam đã có sự thay đổi rỏ rệt. Kim ngạch hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản tăng mạnh hàng năm và chiến tỷ trọng ngày càng cao, trong khi tỷ trọng hàng nông sản có xu hướng giảm đi trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này. Là một nước có lợi thế so sánh trong sản xuất nông sản xuất khẩu, Việt Nam có đầy đủ các yếu tố để xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá phát triển, đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường thế giới nói chung và tại thị trường EU nói riêng. Thực tế chứng minh rằng, hàng nông sản Việt Nam đã chiếm được một vị trí khá quan trọng trên thị trường EU. Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh về một số mặt hàng nông sản chính như: gạo, chè, cà phê, cao su Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để tăng khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam với hàng nông sản của các nước khác tại thị trường EU.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi cần nghiên cứu, nên em chọn đề tài: "Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam tại thị trường EU”.
Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu nhằm hệ thống các vấn đề lý luận về thị trường quốc tế và cạnh tranh trên thị trường quốc tế; tổng hợp, phân tích thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam ra thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp chủ yếu, các kiến nghị nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam tại thị trường này.
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là thị trường nông sản EU; tình hình cung cấp một số mặt hàng chính của Việt Nam như: gạo, cà phê, cao su, chè trong mối quan hệ với quá trình tổ chức sản xuất, chế biến; mặt mạnh và mặt yếu của những mặt hàng này trong quá trình cạnh tranh với hàng nông sản của các nước khác.
Phạm vi nghiên cứu:
Chủ yếu tại thị trường EU và đối với một số mặt hàng nông sản chính của Việt Nam là gạo, cà phê, cao su, rau quả.
Trên tinh thần đó bố cục khoá luận bao gồm những phần sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về thị trường quốc tế và cạnh tranh trong thị trường quốc tế.
Chương II: Thực trạng cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường EU.
Chương III: Những giải pháp chủ yếu tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam tại thị trường EU.
70 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2166 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam tại thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ VÀ CẠNH TRANH TRONG THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ
Khái niệm và vai trò của thị trường quốc tế đối với nền kinh tế Việt Nam
Khái niệm và những yếu tố đặc trưng cơ bản của thị trường quốc tế
Thị trường, tiếng Anh là “Market”, nghĩa là cái chợ. Đây là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Ngày nay, khi hoạt động trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển, khái niệm thị trường được mở rộng. Hàng hóa sản xuất ra không chỉ được buôn bán trong nước mà còn được buôn bán với nước khác. Khái niệm thị trường quốc tế ra đời. Như vậy, xét theo nghĩa rộng thị trường quốc tế là nơi trao đổi buôn bán hàng hóa không chỉ bó hẹp ở phạm vi một quốc gia mà giữa các quốc gia với nhau và toàn cầu.
Nội dung bản chất của thị trường là hoạt động trao đổi. Thông qua các hoạt động trao đổi mà người mua và người bán thoả mãn nhu cầu của chính mình. Vì vậy, khi nghiên cứu thị trường người ta thường đề cập đến những yếu tố đặc trưng cơ bản sau:
- Chủ thể của quá trình trao đổi: đó chính là người bán và người mua. Cả hai chủ thể này đều có mong muốn được thoả mãn lợi ích của mình thông qua trao đổi.
- Đối tượng của quá trình trao đổi: để có thể tham gia vào quá trình trao đổi, người bán cần có hàng hoá, dịch vụ, còn người mua cần phải có một lượng tiền tệ đáp ứng đủ khả năng thanh toán. Như vậy hàng hoá, dịch vụ và tiền tệ chính là đối tượng của quá trình trao đổi trên thị trường.
- Điều kiện của quá trình trao đổi: quá trình trao đổi là hoạt động tự nguyện của các chủ thể. Họ có thể tự do chấp nhận hoặc từ chối đề nghị của phía bên kia. Mặt khác, để có thể trao đổi hàng hoá, giữa người bán và người mua phải hình thành mối quan hệ ràng buộc như giá cả, điều kiện giao nhận, thanh toán, dịch vụ kèm theo …
Đối với các doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh của họ luôn gắn với một thị trường sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cụ thể. Đó chính là nơi đảm bảo cung ứng các yếu tố “đầu vào” và giải quyết các vấn đề “đầu ra” cho sản xuất và tiêu thụ. Vì vậy, họ không quan tâm đến thị trường nói chung, mà quan tâm đến thị trường sản phẩm của doanh nghiệp. Nói cách khác, điều mà các nhà kinh doanh quan tâm đến chính là những người mua hàng, nhu cầu của họ về những hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất ra. Theo Philip kotler thì "thị trường là tập hợp những người mua hàng hiện tại và tương lai". Quan điểm thị trường là khách hàng của doanh nghiệp sẽ mở ra khả năng khai thác thị trường rộng lớn cho các nhà kinh doanh. Theo đó, thị trường luôn luôn ở trạng thái vận động và phát triển. Khả năng phát triển khách hàng sẽ quyết định khả năng phát triển thị trường của doanh nghiệp.
Tóm lại, thị trường bao gồm các yếu tố: bên cung cấp, bên tiêu thụ và đối tượng hàng hoá, dịch vụ. Khả năng cung cấp hàng hoá, dịch vụ thoả mãn bên tiêu thụ sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Vai trò của thị trường:
Xuất phát từ bản chất và chức năng này của mình, thị trường đóng vai trò rất quan trọng đối với quản lý kinh tế vĩ mô, cũng như đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vì thị trường sẽ quyết định việc doanh nghiệp sẽ sản xuất cái gì, bằng cách nào, sản xuất cho ai, quy mô sản xuất như thế nào.
Thứ nhất, doanh nghiệp hoạt động hiệu quả nghĩa ra doanh nghiệp đó tiêu thụ được càng nhiều hàng hóa, dịch vụ càng tốt. Muốn vậy, những hàng hóa và dịch vụ đó phải là những cái thị trường cần chứ không phải cái doanh nghiệp tự sản xuất ra, cho nên doanh nghiệp phải biết được thị trường cần gì và đáp ứng đúng mặt hàng đó.
Thứ hai, thị trường còn quyết định quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sau khi nắm được thị trường cần gì còn phải biết thị trường cần số lượng bao nhiêu để quyết định quy mô sản xuất hợp lý. Việc sản xuất ít hơn hay nhiều hơn nhu cầu thị trường đều khiến doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, thậm chí còn bị thua lỗ, phá sản.
Thứ ba, thị trường là nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp. Từ đó, doanh nghiệp phải xác định được bằng cách nào tận dụng được các yếu tố đó một cách hiệu quả nhất để sản xuất sản phẩm với chi phí thấp nhất. Do đó, nói thị trường quyết định việc doanh nghiệp sản xuất bằng cách nào.
Với vai trò to lớn như vậy, trong quá trình nền kinh tế toàn cầu hoá ngày càng diễn ra mạnh mẽ hiện nay, việc doanh nghiệp của một nước phải luôn tìm kiếm và mở rộng thị trường ở những nước khác hoặc những khu vực khác là vô cùng cần thiết đối với sự sống còn của doanh nghiệp đó.
Cạnh tranh trong thị trường quốc tế.
Khái niệm
Trên thương trường, nói chung các Công ty đều hoạt động vì mục đích lâu dài là lợi nhuận. Để đạt được mục đích đó, các Công ty luôn tìm mọi cách thức, thực hiện mọi biện pháp làm cho mình trở nên có lợi thế hơn các đối thủ khác về một hay một số mặt hàng, dịch vụ nào đó.
Thuật ngữ khả năng cạnh tranh chỉ khả năng tồn tại và phát triển của các chủ thể hoạt động trên thị trường nhờ có ưu thế hơn các chủ thể khác về các đặc trưng, với môi trường kinh doanh mà tính chất và qui mô ngày càng tăng theo trình độ phát triển. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế, môi trường cạnh tranh không chỉ trong phạm vi quốc gia mà mở rộng ra toàn cầu. Trong môi trường đó, các chủ thể tham gia cạnh tranh có sự góp mặt thêm của các quốc gia khác nhau.
"Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó dưới các điều kiện tự do và công bằng, có thể sản xuất được các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó "hay là" khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, được xác định bằng sự thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người theo thời gian” 2.
Đối với doanh nghiệp, khả năng , khả năng CT thể hiện qua sự tồn tại, phát triển, khả năng chiếm lĩnh thị trường dựa vào "tính trội" hơn các doanh nghiệp tạo nên sự hấp dẫn và thuận tiện cho khách hàng trong quá trình sử dụng; cụ thể thông qua chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, khối lượng và thời gian giao hàng, tính chất và sự khác biệt của hàng hoá, dịch vụ của nước này so với hàng hoá, dịch vụ của nước khác trong việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn được thể hiện qua tính kinh tế của các yếu tố đầu vào cũng như đầu ra, liên quan đến chi phí cơ hội, năng suất lao động, khả năng đáp ứng yêu cầu, thị hiếu khách hàng và ảnh hưởng, tác động của hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại.
Sự phân tách khả năng cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp hay của một quốc gia chỉ mang tính tương đối khi xem xét, nghiên cứu khả năng cạnh tranh của một trong ba cấp độ trên thì không thể không đề cập đến hai cấp độ còn lại. Bởi vì khả năng cạnh tranh của sản phẩm là cơ sở hình thành, quyết đinh khả năng cạnh tranh của doanhh nghiệp và qua đó xác định khả năng cạnh tranh của quốc gia. Xét cho cùng, các quốc gia tham gia vào thị trường quốc tế thông qua các doanh nghiệp mang quốc tịch của nước đó với các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ có thể được sản xuất tại chính quốc gia đó. Khả năng cạnh tranh của một quốc gia là tổng hợp khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và sản phẩm mà quốc gia đó cung ứng.
Vai trò của cạnh tranh trên thị trường quốc tế:
Bất kỳ một vấn đề nào cũng có 2 mặt: mặt tích cực và mặt tiêu cực. Theo qui luật này, cạnh tranh trong thị trường quốc tế cũng đã mang lại những tác dụng to lớn nhưng cũng không tránh khỏi những hạn chế của nó. Trước hết cạnh tranh đóng vai trò tích cực thông qua:
- Cạnh tranh thương mại đảm bảo điều chỉnh cung cầu, cạnh tranh phối hợp tối ưu giữa người sản xuất và người tiêu dùng theo một cách thức dài hạn, đảm bảo cho hàng hoá và dịch vụ được cung cấp sẽ đáp ứng đủ cho nhu cầu của thị trường.
- Cạnh trạnh thực hiện chức năng phân phối nguồn lực, làm nguồn lực di chuyển đến những nơi mà chúng sinh lời nhất, vì những người sở hữu nguồn lực đó muốn sử dụng chúng để đạt lợi nhuận cao nhất.
- Cạnh tranh làm thoả mãn người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, chỉ những sản phẩm và dịch vụ người tiêu dùng muốn mới được bán ra và sản xuất dài hạn. Do đó, các nhà sản xuất phải tìm mọi cách cải tiến chất lượng sản phẩm , thay đổi mẫu mã, bao bì, giảm giá thành cho sản phẩm. Tất cả điều đó mang lại lợi ích cho khách hàng.
- Cạnh tranh thúc đẩy các tiến bộ kỹ thuật. Một trong những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh là năng suất. Muốn có được năng suất cao chỉ có thể nhờ hệ thống, máy móc kỹ thuật. Trong khi, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão với sự ra đời của máy móc mới trong từng phút. Do đó, các nhà sản xuất phải luôn nỗ lực để có được những máy móc kỹ thuật hiện đại hơn để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm nhằm cạnh tranh không ngừng với những đối thủ khác.
Tuy nhiên, đã là cạnh tranh thì tất nhiên sẽ có những doanh nghiệp mạnh lên, qui mô ngày càng mở rộng, có sức ảnh hưởng lớn trên thị trường; ngược lại, sẽ có những doanh nghiệp nhỏ không đủ sức cạnh tranh dẫn đến phá sản. Doanh nghiệp lớn mạnh nhất dễ trở thành độc quyền, nghĩa là thao túng thị trường từ khâu phân phối đến giá cả. Xét trong dài hạn, động lực cạnh tranh cũng mất dần. Họ cũng không cần chú ý đến việc hạ thấp chi phí sản xuất, giảm giá thành, cải tiến chất lượng sản phẩm… Người tiêu dùng chính là người chịu thiệt hại.
Như vậy, cạnh tranh là động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Nhưng nếu cạnh tranh không lành mạnh thì sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực, làm triệt tiêu việc sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ.
Các yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh:
Lợi thế so sánh:
Chẳng hạn năng suất lao động trong ngành sản xuất gạo và than ở hai nước Anh và Mỹ lần lượt là:
Bảng 1: Năng suất lao động trong 2 ngành sản xuất gạo và than của Mỹ và Anh.
Năng suất
Mỹ
Anh
Gạo (kg/1 ngày công lao động )
300
800
Than (bao/1ngày công lao động )
150
200
Theo như thuyết "lợi thế tuyệt đối" của Adam Smith, Anh là quốc gia có thể sản xuất hiệu quả 2 mặt hàng gạo và than so với Mỹ. Nếu xét một cách tuyệt đối thì Mỹ sản xuất hoàn toàn không có hiệu quả mặt hàng than. Nhưng thực tế thì ngược lại, nếu Mỹ chuyên môn hoá sản xuất than và Anh chuyên môn hoá sản xuất gạo thì sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Lúc đó, cả Anh và Mỹ sẽ sản xuất được tổng cộng là 1.600kg gạo và 300 bao than trong 1 ngày. Để giải thích điều đó, David Ricardo đưa ra lý thuyết " lợi thế so sánh" cho rằng: một quốc gia giành được lợi thế so sánh ở những ngành sử dụng rộng rãi các yếu tố sản xuất mà quốc gia đó có ưu thế thì quốc gia đó sẽ sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng này và nhập khẩu những mặt hàng mà nó không có lợi thế so sánh. Cần chú ý rằng, lý thuyết "lợi thế so sánh" dựa trên giả thuyết có sự phân bố các nguồn lực sản xuất không đồng đều ở mỗi quốc gia. Từ lý thuyết này có thể mở rộng ra quốc gia này nên sản xuất mặt hàng mà nó có nhiều thuận lợi về nguồn lực nhất và quốc gia kia nên sản xuất mặt hàng mà nó gặp ít bất lợi nhất.
Hiệu quả của sản xuất (năng suất lao động)
Sự khác biệt về lợi thế so sánh ở một ngành sản xuất nào mới chỉ cho phép quốc gia có thể có khả năng cạnh tranh cao hơn quốc gia khác trong sản xuất mặt hàng đó. Nhưng để biến các ưu thế thành hiện thực thì cần phải tổ chức sản xuất để đưa ưu thế về nguồn lực sản xuất thành ưu thế về hiệu quả sản xuất, thể hiện bằng năng suất lao động. Năng suất lao động là chỉ số thể hiện sự tăng trưởng của ngành, của quốc gia, được đo bằng giá trị hàng hoá, và dịch vụ sản xuất được trên một đơn vị lao động, vốn, nguồn lực vật chất trong ngành đó, quốc gia đó. Năng suất chính là tiêu chí mà thông qua đó xác định tính cạnh tranh.
Quy mô sản xuất:
Khả năng cạnh tranh còn được quyết định bởi quy mô sản xuất. Trước một tổng cầu nhất định, doanh nghiệp phải tổ chức quy mô sản xuất phù hợp. Quy mô sản xuất qúa lớn, nghĩa là khả năng sản xuất nhiều hơn so với nhu cầu, sẽ dẫn đến lãng phí và đẩy chi phí sản xuất lên cao, không có lợi cho cạnh tranh. Ngược lại, nếu quy mô sản xuất qúa nhỏ doanh nghiệp không có khả năng sản xuất đủ đáp ứng nhu cầu thị trường; lúc đó, doanh nghiệp tự bỏ lỡ cơ hội ký kết các hợp đồng lớn với công ty nước ngoài.
Tổ chức hoạt động thương mại:
Khả năng cạnh tranh còn được tăng cường hơn nữa nhờ tổ chức hoạt động thương mại. Tổ chức hoạt động thương mại không chỉ dừng ở chỗ kết nối thông tin về nguồn cung - cầu trên thị trường mà còn thể hiện ở việc liên kết các nhà cung cấp với nhau để vừa đáp ứng nhu cầu hàng hóa của thị trường, vừa tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm đánh bại các đối thủ khác. Nhiều khi xảy ra hiện tượng tranh mua tranh bán, các nhà xuất khẩu mạnh ai nấy xuất, gìm giá lẫn nhau. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và của các quốc gia nói chung.
Ngoài bốn yếu tố kể trên còn rất nhiều yếu tố khác như: chi phí cơ hội, chính sách thương mại, tỷ giá hối đoái của Nhà nước, quan hệ ngoại giao, …
Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng nông sản:
Hàng nông sản xét cho cùng là một loại hàng hoá, cho nên, nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của mặt hàng này cũng bao gồm bốn nhân tố kể trên. Tuy nhiên, là mặt hàng thuộc về sản xuất nông nghiệp nên nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của nó cũng có đặc trưng riêng.
Sản xuất nông nghiệp gắn liền với điều kiện tự nhiên, phụ thuộc vào điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, sự phân bổ của ánh sáng, nguồn nước… do đó lợi thế so sánh quan trọng là sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, khí hậu giữa các quốc gia. Các lợi thế này cho phép quốc gia đó có thể có khả năng cạnh canh cao về hàng nông sản vì có thể sản xuất ra cùng một loại hàng hoá với chi phí thấp và chất lượng sản phẩm cao hơn.
Nhân tố thư hai là năng suất của cây trồng và vật nuôi: Lợi thế về điều kiện tự nhiên mới chỉ là điều kiện cần. Để biến những lợi thế về tự nhiên đó thành những ưu thế vượt trội về chất lượng, chi phí sản xuất… cần phải có cơ cáu giống thích hợp, cho năng suất cao, chất lượng tốt và phải có cơ cấu mùa vụ thích hợp.
Nhân tố tiếp theo là trình độ và qui mô của ngành công nghiệp chế biến tương ứng với nguồn nguyên liệu. Sản xuất nông nghiệp liên quan mật thiết với các ngành công nghiệp chế biến. Các ngành này không những góp phần tiêu thụ một phần nông sản làm ra mà còn làm tăng giá trị nông sản làm ra mà còn làm tăng giá trị nông sản qua quá trình sơ chế và tinh chế.
Lợi thế về lao động cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của hàng nông sản. sản xuất nông nghiệp phân bố trên địa bàn rộng rãi, mang tính chất thời vụ cao lại phụ thuộc nhiều vào qui luật sinh trưởng của vật nuôi, cây trồng vì thế đặc điểm lao động trong nông nghiệp khác hẳn trong công nghiệp. Đó là trình độ cơ giới hoá, tự động hoá thấp, nhiều công đoạn không thể sử dụng máy móc và đặc biệt là tính tập trung của lao động thấp, do đó sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào lao động, chi phí lao động chiếm một phần lớn trong giá thành sản phẩm.
Cuối cùng, chính sách của các nước xuất - nhập khẩu có tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của hàng nông sản. Các nước xuất khẩu muốn tăng cường xuất khẩu một mặt hàng nào đó thì sẽ có chính sách tăng cường sản xuất trong nước, chính sách mở rộng thị trường, chính sách ưu đãi về thuế,…đối với mặt hàng đó. Các nước nhập khẩu cũng có chính sách ưu đãi về thuế cho một số nước có hàng nông sản mà họ cần. Nhờ đó mà hàng nông sản của nước này có lợi thế cạnh tranh hơn so với hàng nông sản của nước khác.
Tổng quan về thị trường nông sản thế giới và tình hình cung cấp hàng nông sản của Việt Nam ra thị trường thế giới
Đặc điểm của thị trường nông sản thế giới
Thị trường nông sản thế giới luôn diễn biến phức tạp, sự biến động thường xuyên về các nguồn cung và cầu ảnh hưởng đến giá cả và sản lượng của các mặt hàng nông sản. Nhìn chung, thị trường nông sản thế giới có 6 đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, khác với sản phẩm của công nghiệp phần sản phẩm nông nghiệp được đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới chiếm tỷ trọng thấp trong tổng sản lượng sản xuất ra hàng năm. Theo tài liệu của WTO, trong những năm gần đây, tỷ lệ đó của một số nông sản như sau: lúa gạo: 4%, lúa mì: 20%, đậu tương: 30%, đường: 30%, cà phê: 75%, ca cao 65%... song không vì nông sản trao đổi trên thị trường quốc tế chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng sản xuất ra mà thương mại nông sản giữ vị trí kém phần quan trọng trong lưu thông quốc tế.
Thứ hai, chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa tự do là 2 mặt mâu thuẫn của một vấn đề nhằm hướng tới việc hình thành một thị trường buôn bán nông sản ngày càng tự do hơn. Một số nước có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất nông sản, cùng với lợi ích dân tộc của mình luôn theo đuổi chính sách tự do trong thương mại quốc tế. Còn một số nước có những bất lợi trong sản xuất nhiều nông sản lại cố gắng duy trì chủ nghĩa bảo hộ đối với thị trường nông sản trong nước của họ.
Thứ ba là thị trường nông sản quốc tế phụ thuộc trực tiếp vào quan hệ chính trị giữa các quốc gia. Nói cách khác, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Trong công tác tìm kiếm thị trường thì hoạt động chính trị luôn phải đi trước một bước.
Thứ tư, những nước phát triển và những nước đang phát triển dần tìm được vị trí của mình trong danh mục các mặt hàng nông sản xuất khẩu, nghĩa là, với các nông sản cơ bản, các nước phát triển là những cường quốc giữ ưu thế tuyệt đối về năng suất, sản lượng, giá thành… còn các nước đang phát triển sản xuất và xuất khẩu những nông sản mà họ có thể tương đối so với đối thủ nói trên. Đó là các nông sản nhiệt đới như: cà phê, chè, gạo, hạt điều… với việc xuất khẩu những hàng nông sản không trùng với hàng nông sản thế mạnh của EU, Mỹ… các nước đang phát triển có thể dầu len chân và được chính thị trường của các nước phát triển này.
Thứ năm, trong mấy thập kỷ qua, thị trường một số nông sản chủ yếu đã cơ bản được phân chia xong. Trong đó, một số nước giữ vai trò quyết định tạo nguồn cung , còn một số khác lại là người quyết định tạo nguồn cầu. Ví dụ: hàng năm, Hồng Kông nhập khoảng 1,1 triệu tấn cà phê (chiếm 1/4 sản lượng cà phê giao dịch thị trường thế giới) do Brazil, Colombia, Mexico cung cấp; hay thị trường gạo chất lượng thấp (35% tấn) ở Châu Phi hàng năm nhập khoảng 4 triệu tấn chủ yếu từ Thái Lan.
Cuối cùng, đặc điểm thứ sáu của thị trường nông sản thế giới là sự không ổn định về nguồn cung trong khi nguồn cầu tương đối ổn định dẫn đến sự lên xuống thường xuyên của giá cả một số mặt hàng nông sản trên thế giới.
Nắm được những đặc điểm trên sẽ giúp Việt Nam có những biện pháp mở rộng quan hệ chính trị nhằm từng bước mở rộng thị trường. Đồng thời, xác định được vị trí các mặt hàng nông sản xuất khẩu của mình trên thị trường thế giới, trên cơ sở nhận thức được những điểm còn hạn chế của nó, xác định được chiến lược thâm nhập vào những thị trường phù hợp, những kẽ hở của thị trường nhằm mục tiêu cuối cùng là tăng uy tín và sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
Xu hướng của thị trường nông sản thế giới
Thị trường nông sản thế giới tuy diễn biến bất thường nhưng đi theo một số xu hướng chính sau:
* Xu hướng chuyển từ chuyên môn hoá sang đa dạng hoá sản xuất và xuất khẩu nông sản. Điều này xuất phát từ nguyên nhân cơ bản là các quốc gia muốn giảm bớt hậu quả của các cuộc khủng hoảng kinh tế, mà theo đó là sự biến động lớn về giá cả. Cụ thể là quốc gia nếu bị thất thu từ nông sản này còn có nguồn thu từ nông sản khác gánh đỡ. Vì vậy, đa dạng hoá sản xuất và xuất khẩu nông sản vừa đối phó được với diễn biến bất thường của thị trường, vừa khai thác hợp lý nguồn lực trong nông nghiệp, làm tăng thu ngoại tệ cho nước xuất khẩu.
* Nhu cầu nông sản của thế giới đang hướng tới những sản phẩm có chất lượng tự nhiên. Ví dụ: người ta thích ăn thịt gà được chăn thả tự nhiên hơn là thịt gà được nuôi theo kiểu công nghiệp, hay các loại rau quả được bón bằng phân hữu cơ lại được ưa chuộn hơn sản phẩm cùng loại bón bằng phân vô cơ và dùng nhi