Vấn đề chung về môi trường, vệ sinh, và trật tự an ninh xã hội.
- Vấn đề môi trường cần phối hợp thực hiên với các nước trên thé giới. vấn đề phát triển công nghiệp và dịch vụ của nền kinh tế toàn cầu đang tác động xấu đến môi trường taòn cầu trong đó có Việt Nam. Tại Việt Nam, nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng 0,1 độ C và mực nước biển dâng từ 2,5 - 3 cm trong vòng mỗi thập kỷ qua. Sự thay đổi chế độ mưa với lượng mưa tăng vào mùa mưa nhưng lại giảm vào mùa khô là nguyên nhân gây ra lũ lớn thường xuyên hơn và hạn hán xảy ra hàng năm ở hầu hết các khu vực trong cả nước. cần có biện pháp ngăn chặn ngay những hành vi làm tổn hại đến môi trường bằng các bộ luât .
- Phát triển các ngành dịch vụ trong thời gian gần đay đang khá nóng. Khi mà lượng khách du lịch đến Việt Nam ngày một tăng, nhu cầu sử dụng các dịch vụ như ăn uông, du lịch, đi lại của nhân dân cũng tăng nhanh, thì vấn đè vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh công cộng hết sức quan trọng. Ngoài nâng cao nhận thức cho cộng đồng thì cũng cần có những tổ chức, cơ quan chức năng thường xuyên giám sát và xử lý các hiên tượng vi phạm.
- Các vấn đề an ninh trật tự xã hội cũng diẽn ra nhiều hơn khi kinh tế phát triển cao hơn. Cần tổ chức những đội tuyên truyền để nâng cao nhận thức, các đội xử lý để ngăn chăn không cho nhưng hoạt động gây mất trật tự an ninh diễn ra. Quan trong nhất là cần nâng cao nhận thức của mỗi người tue trong trường học.
Như vậy, tựu chung lại.
Nhà nước cần có thái độ quyết liệt với những mặt hạn chế của kinh tế thị trường. Đảng, lực lượng lãnh, cần tiên phong, gương mẫu, trong sạch.
Thúc đẩy môi trường kinh doanh an toàn và thuận lợi. Phát huy sức mạnh cộng đồng.
Cải tiến các chính sách lưu thông, phân phối quyết tâm khắc phục những yếu kém trong kinh tế và quản lý kinh tế; sắp xếp lại và cải tạo kinh tế, đặc biệt là tập trung phát triển khu vưc còn chậm phát trển.
Thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội và điều tiết các quan hệ xã hội; khuyến khích người dân làm giàu một cách hợp pháp; giữ vững môi trường chính trị - xã hội ổn định, an ninh trật tự tốt.
Kết hợp hài hòa giữa chính trị và kinh tế thị trường, giữa kế hoạch và thị trường, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
22 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8515 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp khắc phục khuyết tật và phát huy mặc tích cực của kinh tế hàng hóa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ HÀNG HÓA
Kinh tế hàng hóa và tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế hàng hóa
a, Kinh tế hàng hóa:
Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế_xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là đẻ thỏa mãn nhu cầu của người mua, đáp ứng nhu cầu xã hội [2,trg85].
Kinh tế hàng hóa ra đời và phát triển dựa trên hai điều kiện là: phân công lao động và sự khác biệt tương đối về kinh tế. Kinh tế hàng hóa lại tác động lên hai yếu tố trên, rồi các yếu tố ấy lại làm cho kinh tế hàng hóa càng phát triển hơn[1,trg58].
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển đến trình độ xã hội hóa cao. Trình độ xã hội hóa cao đó làm nảy sinh các quy luật vận hành mới của nền kinh tế. [4,trg112]. Những quy luật đó giúp nền kinh tế thị trường tao ra một cơ chế tự điều chỉnh, đó là cơ chế thị trường.
Khi chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa rồi phát triển ở mức độ cao là kinh tế thị trường thì nền sản xuất hàng hóa đều mang những đặc điểm nhất định. Như:
. Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi và mua bán.
. Lao đông của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã hội. [1,trg59-60].
Và cần lưu ý rằng: Kinh tế hàng hóa có bước phát triển cao là kinh tế thị trường, mang tính chất phổ biến trong xã hội tư bản. Song không phải vì thế mà đồng nhất kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường với kinh tế Tư bản.
b, Tác dụng to lớn của sự phát triển hàng hóa.
So với nền kinh tế tự cung, tự cấp thì nền kinh tế hàng hóa có những ưu thế hơn hẳn:
Kinh tế hàng hóa ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất. Nó phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng xuất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa mở rông ra giữa các quốc gia thì nó còn khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng dựa trên nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất…thúc đẩy sản xuất phát triển.
Sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa và quy luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh, buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn năng động, nhạy bén…làm chi phí sản xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu thị hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu kinh tế giưa các cá nhân,các vùng…không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao, đa dạng và phong phú hơn. [1,trg61-62]
Kinh tế hàng hóa hay kinh tế thị trường mang lai những quy luật phát triển và những cơ chế làm cho bản thân nó ngày càng phát triển, xã hội ngày càng tiến bộ, cuộc sống của con người ngày càng nâng cao…
Những khuyết tật của kinh tế hàng hóa.
a, Kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường.
Chúng ta đã biết kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có cùng nguồn gốc và bản chất, kinh tế thị trường là bước phát triển cao hơn của kinh tế hàng hóa. Như vậy biểu hiện của kinh tế hàng hóa ngày nay chính là những biểu hiện của kinh tế thị trường. Mà kinh tế thị trường ngày nay tự hoạt động theo cơ chế thị trường. Hay nói một cách khác là cơ chế thị trường điều khiển nền kinh tế hàng hóa hay kinh tế thị trường.
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của kinh tế hàng hóa dưới sự tác động bởi những quy luật vốn có của nó. Cơ chế thị trường tự phát sinh cùng với sụ phát triển của kinh tế hàng hóa, ở dâu có lưu thông hàng hóa ở đó có cơ chế thị trường hoạt động[1,trg107]. Như vậy cơ chế thị trường lại tác động trực tiếp tới hoạt động của kinh tế hàng hóa. Và do cơ chế thị trường là một quy luật nên nó luôn tạo ra những khuyết tật nên nó cũng là nhưng khuyết tật của kinh tế hàng hóa.
Vậy việc nghiên cứu những khuyết tật và cách khắc phục những khuyết tật của kinh tế hàng hóa cũng chính là nghiên cứu những khuyết tật và cách khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường.
b, Những khuyết tật của cơ chế thị trường hay nền kinh tế hàng hóa.
Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất để đièu tiết nền kinh tế thị trường, tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có những khuyế tật vốn có củ nó.
Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ có thể phát huy tác dụng tốt nhất trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện môi trường canh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện đôc quyền, các mhà độc quyền có thể giảm sản lượng, tăng giá để thu lợi nhuận cao, mặt khác, khi xuất hiệ độc quyền thì không có sức ép về cạnh tranh để cải tiến kĩ thuật. Ví dụ điển hình nhất của nền kinh tế hiện đại bây giờ có lẽ là OPEC với 45% sản lượng giầu lủa của thế giới. Tuy không phải là độc quyền hoàn toan nhưng mỗi khi có sự thay đổi về chiến lược của OPEC, cả thế giới đều ảnh hưởng.
Thứ hai, Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế_xã hội không được đảm bảo. Như tại nước Mỹ và Trung Quốc, hai nước đang có nền công nghiệp rất giàu tiềm năng và đang vận hành một nền công nghiệp khổng lồ, thì tại đó cũng là hai nơi thải ra lượng khí thải lớn nhất, bằng 1/2 lượng khí thải của toàn thế giới. Gây hiểm họa khôn cùng cho bầu khí quyển, cho trái đất và cho cuộc sống của con người.
Thứ ba, phân phối thu nhập không công bằng, có những mục tiêu xã hội dù cơ chế thị trường hoạt động trôi chảy cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường dần dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, sự phân cực của của cải, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng không tự động mang lại nhưng giá trị chân, thiện, mỹ mà xã hội vươn tới. Cũng tại ở Mỹ, một đất nước vô cùng phát triển về cả kinh tế lẫn khoa học, nhưng lại có hàng loạt những sự kiện mà sinh viên, học sinh, vì quá căng thẳng với cuộc sống cong nghiêp tai nước mình, mà cầm súng xả vào bạn bè thầy cô ngay trong trường mình, rồi cuối cùng tự sát.
Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần túy điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp. Người ta nhận thấy rằng, một nền kinh tế thị trường hiện đại đứng trước một khó khăn nan giải của kinh tế vĩ mô: không một nước nào trong một thời gian giài lại duy trì được một mức lạm phát thấp và đày đủ công ăn việc làm. [2,trg112-113]
Đó là những khuyết tật mà bất cứ một nền kinh tế nào hoạt động dưới sụ điều tiết cua cơ chế thị trường đều gặp phải.
1.3 Bài học kinh nghiệm của các nước, mà tiêu biểu là Trung Quốc trong việc khắc phục những khuyết tật của kinh tế hàng hóa.
Có rất nhiều nét tương đồng với Viêt Nam trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, những gì Trung Quốc đã làm rất có giá trị đối với chúng ta:
Thứ nhất, quyết tâm cải cách, đổi mới trong đường lối và thực hiện.
Hội nghị trung ương 3 của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (1978) đã đề ra quyết sách chiến lược là chuyển từ tình trạng kinh tế bị kìm hãm do mặt trái của cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cải cách, mở cửa bằng thể chế kinh tế định hướng thị trường.
Đại hội XVI (2002) đề ra phải "kiên trì lấy xây dựng kinh tế làm trọng tâm, không ngừng giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội". Đại hội xác định: "Nhiệm vụ chủ yếu của xây dựng và cải cách kinh tế trong 20 năm đầu của thế kỷ này là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy điều chỉnh chiến lược kết cấu kinh tế, cơ bản thực hiện công nghiệp hóa, đẩy mạnh tin học hóa, xây dựng nhanh hiện đại hóa, duy trì kinh tế quốc dân phát triển nhanh, lành mạnh, bền vững, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".
Thứ hai, những biện pháp xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường.
Tuy thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã được xác định, nhưng nó còn phải tiếp tục được hoàn thiện. Những thể chế mà Đảng đề ra và tổ chức thực hiện là tiến hành cải cách kinh tế ở nông thôn; đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp quốc hữu theo phương châm "ưu thắng kém thải"; chuyển biến chức năng quản lý kinh tế của chính quyền, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các xí nghiệp; phát triển hệ thống thị trường; kiện toàn hệ thống điều hành vĩ mô; tăng cường chế độ pháp luật của kinh tế thị trường; cải cách về tài chính, thuế, tiền tệ, ngoại thương, ngoại hối, đầu tư, giá cả; thực hiện các chính sách xã hội và việc làm.
Thứ ba, về chế độ phân phối.
Trong công cuộc cải cách mở cửa, Trung Quốc đi sâu thực hiện cải cách chế độ phân phối, căn cứ vào yếu tố sản xuất và yếu tố cống hiến để định ra các hình thức phân phối cho phù hợp, trong đó lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, tức "ưu tiên hiệu suất" nhưng cũng "tính đến công bằng"; tăng cường chức năng điều tiết của chính quyền đối với việc phân phối.
Phát triển kinh tế phải đi đôi với việc thực hiện các chính sách xã hội và công bằng xã hội.
Thứ tư, về thị trường
Lý luận về thị trường đóng vai trò cơ sở trong việc phân bố tài nguyên (hiểu theo nghĩa rộng). Trung Quốc xem đây là bản chất của cuộc cải cách thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tăng nhanh tốc độ phát triển thị trường sản xuất và thị trường tiêu thụ trở thành nhiệm vụ trọng điểm. Quy phạm hóa trật tự thị trường; từng bước hình thành hệ thống thị trường lớn, thống nhất trong phạm vi cả nước sẽ làm cho các yếu tố sản xuất có thể lưu thông tự do trên thị trường. Tấn công mạnh vào các hiện tượng làm giả, mạo danh và các hành vi xâm phạm quyền lợi chính đáng; xây dựng và kiện toàn kinh tế chữ "tín" và kinh tế pháp chế thị trường; kết hợp đúng đắn giữa đức trị và pháp trị. Hệ thống điều hành vĩ mô chủ yếu áp dụng biện pháp kinh tế và pháp luật. Kinh tế thị trường đòi hỏi cạnh tranh công bằng, bất luận kinh tế công hữu hay kinh tế phi công hữu đều không được hưởng bất cứ một đặc quyền nào.
Thứ năm, vấn đề chủ thể và chủ đạo trong kinh tế thị trường
Trung Quốc lấy chế độ công hữu làm chủ thể, coi đó là chế độ kinh tế cơ bản. Không có chế độ công hữu thì không có chủ nghĩa xã hội, nhưng không có kinh tế phi công hữu thì không có kinh tế thị trường. Từ khi cải cách, mở cửa đến nay, kết cấu chế độ sở hữu ở Trung Quốc có sự chuyển biến lớn.
Không nên hiểu quan điểm lấy chế độ công hữu làm chủ thể một cách giản đơn là lấy kinh tế quốc hữu hay chế độ công hữu truyền thống "nhất đại, nhì công, tam thuần" (tức: một - quy mô lớn, hai - công hữu hóa toàn bộ, ba - thuần túy chủ nghĩa xã hội) làm chủ thể. Chế độ công hữu làm chủ thể chủ yếu thể hiện ở chỗ tài sản công hữu chiếm ưu thế trong toàn bộ tài sản xã hội, và, sức khống chế, địa vị chủ thể của kinh tế quốc hữu đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, các loại hình kinh tế có chế độ sở hữu khác nhau hoàn toàn có thể phát huy ưu thế của mình, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển trong cạnh tranh thị trường, thực hiện "dân làm, dân doanh, dân có, dân hưởng".
Thứ sáu, phát triển kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hóa, xã hội; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cải cách, đổi mới, ổn định và phát triển.
Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa liên quan chặt chẽ đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Thực hiện tốt vấn đề này tức cũng là thực hiện sự đổi mới xã hội sâu sắc. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cải cách, phát triển và ổn định theo nguyên tắc "cải cách là động lực, phát triển là mục đích, ổn định là tiền đề". Đó là "ba quân cờ chiến lược gắn bó khăng khít với nhau trên bàn cờ xây dựng hiện đại hóa của Trung Quốc".
Thứ bảy, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế.
Trung Quốc coi việc mở cửa với bên ngoài là một quốc sách cơ bản lâu dài, là con đường tất yếu trong tiến trình đẩy nhanh hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa thì phải kiên trì mở cửa với bên ngoài. Cục diện mở cửa với bên ngoài đa phương hóa, nhiều tầng nấc, lĩnh vực rộng, thực hiện chiến lược "đi ra thế giới" và "đón thế giới vào". Mở cửa đối ngoại đã thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển.
Thứ tám, vai trò của Đảng và Nhà nước trong kinh tế thị trường
Trung Quốc thực hiện hiệp thương chính trị do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, nhưng quyết không đa nguyên chính trị, không đa đảng đối lập, không tam quyền phân lập. Đảng là hạt nhân lãnh đạo trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, đại diện cho lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân Trung Quốc. Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp trị và coi trọng điều hành vĩ mô của Nhà nước. [www.tapchicongsan.org.vn ]
Đó là những kinh nghiệm của Trung Quốc, và trên thực tế, những điều họ làm đang mang lại một kết quả vô cùng tốt đẹp cho nền kinh tế thị trường cũng như cho đất nước.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHỮNG KHUYẾT TẬT CỦA NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
2.1 Mặt đạt được và tồn tại của kinh tế hàng hóa ở nước ta.
a, Mặt đạt được.
Bằng đường lối đổi mới, mà một trong những đổi mới quan trọng là thực hiện cơ chế thị trường, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-vã hội. đó là một thành tựu rất quan trọng, cho phép đất nước mở ra một thời kì mới, một thời kì mà con đường tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa dễ dàng hơn, lòng tin của nhân dân vào Đảng ngày càng được củng cố . [4,trg152]
. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục và ổn định. Trong 5 năm 1991 – 1995, bình quân GDP nước ta đạt 8,2%, vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra(5,5% – 5,6%). 1994-2005 là 6,81% [www.undp.org.vn], và năm 2007 dự kiến sẽ đạt 8,2-8,5% [www.laodong.com.vn]
. Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, đặc biệt là sản xuất lương thực, năm 2005 tỷ trọng GDP của nông nghiệp là 20,89%. Năm 1997 đã tăng từ nghèo đói lên đến 27.523 nghìn tấn, năm1998 là 29.141 nghìn tấn gạo xuất khẩu và sản lượng, đến năm 2007 dự đoán sẽ đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan với số lượng khoảng trên 40 ngìn tấn. [ www.gso.gov.vn ]
Thắng lợi trên mặt trận nông nghiệp đã tạo tiền đề cho công nghiệp, dịch vụ, tạo tiền đề cho tích lũy vốn. [4,trg154]
Các ngành xây dựng, vận tải, thương nghiệp, du lịch và đều có bước phát triển khá. Mức bán lẻ hàng hóa xã hội qua các năm đều tăng, 19.031 tỷ năm 1990 lên 580.710,1 tỷ năm 2005. So với năm 1990 đến năm 2005, cơ cấu kinh tế đã có những bước chuyển biến tích cực: tỷ trọng nông nghiệp trong GDP từ 38,7% giảm xuống 20,89%, công nghiệp tăng từ 22,7% lên 41,03%, dịch vụ tăng từ 16.190 tỷ lên 319.003 tỷ [ www.gso.gov.vn ]
Hoạt động khoa học gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thích nghi dần với nền kinh tế thị trường . Nhờ hoạt động khoa học – công nghệ đã tạo ra cách làm mới có lợi cho sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ mới ở nước ta. [4,trg154]
Quan hệ kinh tế được mở rộng theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, tính đến cuối năm 1995, tổng số vốn đăng ký của các dự án nước ngoài khoảng 18 tỷ USD. Trong đó đến 2004 thì 1/3 đã thực hiện được. Năm 1995 có 370 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký là 6.530,8 triệu USD, năm 1997 có 345 dự án với tổng số vốn là 4.649,1 triệu USD, năm 1998 có 275 dự án với tổng số vốn là 3897,4 triệu USD.
Số vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài năm 1989 là 0,8 triệu USD, đến năm 2005 tăng lên đến 133,5 triệu USD, và năm 2006 tăng lên 320,8 triệu USD. Đó là tốc độ đầu tư tăng vọt và khổng lồ với một nước đang phát triển như Việt Nam. [www.gso.gov.vn].
Việc nước ta quan hệ buôn bán với trên 100 nước, hơn 50 lãnh thổ và vùng lãnh thổ có quan hệ đầu tư trực tiếp vào nước ta, nhiều chính phủ tổ chức quốc tế viên trợ, cho vay để phát triển là bằng chứng đánh dấu bước chuyển mới quan trọng trong thời kỳ phục hồi và phát triển kinh tế ở nước ta. [4,trg152]
Cơ cấu thành phần kinh tế đã có nhiều tiến bộ. Quan hệ sản xuất đã được điều chỉnh lại cho phù hợp cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và nền kinh tế hàng hóa. Khu vực kinh tế nhà nước từng bước được củng cố và phát huy “vai trò trò quyết định trong việc giữ vững định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Các hình thức kinh tế khác phát triển đa dạng và mạnh mẽ.
Về đời sống nhân dân cũng được cải thiện nhiều. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm, dù mức sống của nhân dân ta so với nhiều nước trong khu vực nhìn chung còn thấp. Trong cả nước mỗi năm chúng ta đã tạo ra 1,2-1,3 triệu việc làm mới. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ trên 30% xuống 11%. Tỷ lệ tăng dân số giảm từ 2,31% xuống 1,53%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 65 lên 71 tuổi (2004) [www.undp.org.vn]
Việc mua bán thuận tiện hơn, khách hàng được coi trọng hơn; do vậy đã tạo được sự phấn khởi và đồng tình của nhân dân. Năm 1996 xuất-nhập khẩu đạt hơn 18 triệu USD, trong đó xuất khẩu 7 triệu USD, tăng 31,2% so với 1995, cao hơn mức tăng bình quân giai đoạn 1991-1995 (26%), năm 1997 tổng trị giá xuất-nhập khẩu đạt hơn 20 triệu USD, năm 1998 đạt gần 21 triệu USD, năm 2000 trên 31 triệu USD. Năm 2005 chỉ mình xuất khẩu đã đạt 32.447,1 tỷ đồng. [22/1/2007 www.gso.gov.vn].
Thêm nhiều nhà ở và đường giao thông được cải tạo, xây dựng; nâng cấp và xây dựng mới nhiều hạng mục cơ sở hạ tầng ở nông thôn và thành thị. Công tác phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu, ngăn chặn dịch bệnh có nhiều tiến bộ.Thể dục, thể thao có bước phát triển hơn so với trước.
Trình độ dân trí và mức độ hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin đại chúng và mạng lưới điện đã về tới phần lớn các vùng nông thôn. Công tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có nhiều tiến bộ. Các hoạt động “uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” chăm sóc các lão thành cách mạng, người có công với nước, các hoạt động nhân đạo-từ thiện, v v…được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Việc phòng chống tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ bạc, tham nhũng, ma túy…đã có những bước đầu. [4,trg152-160]
b) Những tồn tại :
Bên cạnh những thành tựu kinh tế-xã hội đạ đạt được, nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém cần được giải quyết, đó là:
- Các mặt văn hóa-xã hội “còn nhiều điểm nhức nhối”. Tình trạng tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, làm ăn phi pháp chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Sự phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư có chiều hướng tăng lên. Đời sống và mức sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng còn khó khăn. Sức mua của thị trường còn yếu.
- Hiện tượng thiếu việc làm, thất nghiệp còn nhiều. Chất lượng,hiệu quả của công tác giáo dụcvà đào tạo còn thấp, chất lượng phục vụ y tế chưa cao. Một bộ phận người nghèo không đủ tiền để chữa bệnh và cho con đi học…Các tệ nạn xã hội vẫn có chiều hướng gia tăng…
- Hệ thống chính trị ở nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định. Một bộ phận cán bộ đảng viên giảm sút lý tưởng cách mạng, có biểu hiện tha hóa về lối sống, phẩm chất đạo đức. Tình trạng tham nhũng ngày càng nghiêm trọng hơn.
-Việt Nam tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng hiệu quả và chất lượng còn thấp, hàng hóa có sức cạnh tranh thấp. Công nghệ - kỹ thuật còn lạc hậu, chưa sử dụng có hiệu quả nguồn vốn.
-Việc chỉ đạo quan hệ sản xuất mới còn lúng túng, còn chậm tháo gỡ nhưng vướng mắc về cơ chế chính sách để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. việc quản lý còn lỏng lẻo sơ hở.
-Nền kinh tế chưa hình thành đồng bộ hệ thống các loại thị trường. những laọi thị trường như chứng khoán, bất động sản, lao động, vốn… chỉ mới hình thành một vài năm gần đây.
-Hệ thống pháp luật còn thiếu và kém hiệu lực, hệ thống bảo hiểm và an toàn xã hội còn chưa rã ràng và lúng túng. Đó chính là một trong những trở ngại trong quá trình đổi mới, cải cách khu vực kinh tế nhà nước, bảovệ quyền lợi, lợi ích của người lao động trước những rủi ro của