Sản xuất tự cấp, tự túc là kiểu tổ chức kinh tế trong đó những người sản xuất ra sản phẩm, chủ yếu để tiêu dùng cho bản thân và gia đình.Xuất hiện từ rất sớm, nền sản xuất tự cấp, tự túc không tránh khỏi sự thiếu sót và yếu điểm:
- Là nền sản xuất khép kín, hướng vào thỏa mãn nhu cầu chật hẹp của bản thân người sản xuất.
- Sản xuất với qui mô nhỏ, nhu cầu thấp và chủ yếu dựa vào nguồn lực tự nhiên.
- Không có môi trường cạnh tranh nên không có động lực mạnh cho việc đổi mới, cải tiến kỹ thuật để phát triển sản xuất.
- Trong nền sản xuất tự cấp tự túc do sản xuất khép kính, biệt lập nên vật chất, tinh thần, văn hóa của mỗi người, xã hội còn thấp.
- Phân công lao động kém phát triển.
33 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 21050 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp phát triển sản xuất hàng hóa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG 1
1.1 Sản xuất tự cấp tự túc: 1
1.2 Sản xuất hàng hóa: 1
1.3 Ưu thế sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cấp, tự túc: 2
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VÀ ƯU THẾ SXHH Ở NƯỚC TA 4
2.1 Tình hình nước ta từ sau giải phóng tới nay: 4
2.1.1 Tình hình nước ta từ sau giải phóng đến năm 2000: 4
2.1.2 Tình hình nước ta những năm gần đây: 8
2.2 Ưu thế của SXHH ở nước ta: 16
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SXHH Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 19
3.1 Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu: 19
3.2 Đẩy mạnh phân công lao động xã hội: 24
3.3 Đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới: 25
3.4 Đẩy mạnh CNH, HDH, nâng cao năng suất lao động, phát triển lực lượng sản xuất song song phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ: 26
3.5 Phát triển kinh tế ngành, vùng: 30
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG
Sản xuất tự cấp tự túc:
Sản xuất tự cấp, tự túc là kiểu tổ chức kinh tế trong đó những người sản xuất ra sản phẩm, chủ yếu để tiêu dùng cho bản thân và gia đình.Xuất hiện từ rất sớm, nền sản xuất tự cấp, tự túc không tránh khỏi sự thiếu sót và yếu điểm:
- Là nền sản xuất khép kín, hướng vào thỏa mãn nhu cầu chật hẹp của bản thân người sản xuất.
- Sản xuất với qui mô nhỏ, nhu cầu thấp và chủ yếu dựa vào nguồn lực tự nhiên.
- Không có môi trường cạnh tranh nên không có động lực mạnh cho việc đổi mới, cải tiến kỹ thuật để phát triển sản xuất.
- Trong nền sản xuất tự cấp tự túc do sản xuất khép kính, biệt lập nên vật chất, tinh thần, văn hóa của mỗi người, xã hội còn thấp.
- Phân công lao động kém phát triển.
1.2 Sản xuất hàng hóa:
SXHH là kiểu tổ chức kinh tế, trong đó, những người sản xuất ra sản phẩm khôn phải chủ yếu để tiêu dùng cho mình mà để trao đổi, mua bán trên thị trường. SXHH ra đời, tồn tại dựa trên hai điều kiện:
- Thứ nhất là phải có sự phân công lao động xã hội, tức là có sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác. Sự phân chia lao động xã hội sẽ làm cho việc trao đổi sản phẩm trở nên tất yếu vì khi đó mỗi người chỉ sản xuất ra một hay một vài sản phẩm trong khi đó họ có nhu cầu sử dụng nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu hàng ngày họ phải trao đổi sản phẩm do mình làm ra để lấy sản phẩm khác. Mặt khác, sự phân công lao động đã làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến. Các loại phân công lao động xã hội gồm: phân công lao động chung là phân chia nền kinh tế thành các ngành sản xuất khác nhau như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, dịch vụ,... Phân công lao động riêng (phân công lao động đặc thù) là phân chia ngành sản xuất thành những phân ngành như ngành công nghiệp phân chia thành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Trong công nghiệp nặng gồm: công nghiệp khai thác, công nghiệp tạo máy,…Công nghiệp nhẹ: chế biến,… Trong ngành nông nghiệp gồm: ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi.... Phân công lao động cá biệt là phân công trong nội bộ xí nghiệp như trong một xí nghiệp may phân theo dây chuyền cắt, dây chuyền ráp, dây chuyền ủi,… Điều kiện của sự phân công lao động xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Đến lượt nó, phân công lao động xã hội lại là nhân tố phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là tiền đề, cơ sở cho sản xuất hàng hoá. (
- Thứ hai: phải có sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất về mặt kinh tế, tức là những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập nhất định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối. Trong lịch sử, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định còn trong nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Đây là hai điều kiện cần và đủ của SXHH. Thiếu một trong hai điều kiện trên sẽ không có SXHH.
1.3 Ưu thế sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cấp, tự túc:
So với sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hoá có những ưu thế hơn hẳn. Do sản xuất hàng hoá dựa trên sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất nên nó khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương.
Đồng thời, sản xuất hàng hoá cũng tác động trở lại làm cho phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn.
Trong nền sản xuất hàng hoá, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nguồn lực và nhu cầu của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực xã hội. Từ đó, tạo điều kiện cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.
Trong nền SXHH, để tồn tại và sản xuất có lãi, người sản xuất phải luôn luôn năng động, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Nhờ đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động tăng, hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng, các nước... không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hoá, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn. Đó là tính chất “mở” - là đặc trưng của SXHH.
Tóm lại, trong khi sản xuất tự cung tự cấp bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực cá nhân, gia đình; quy mô sản xuất nhỏ, không tạo được động lực thúc đẩy sản xuất phát triển thì SXHH lại tạo được động lực sản xuất phát triển, làm cho sản xuất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mỗi cá nhân và toàn xã hội.
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VÀ ƯU THẾ SXHH Ở NƯỚC TA
2.1 Tình hình nước ta từ sau giải phóng tới nay:
2.1.1 Tình hình nước ta từ sau giải phóng đến năm 2000:
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, Việt Nam ta bắt tay vào công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước. Tình hình thế giới vẫn không ổn định, thêm vào đó là một số chính sách kinh tế không hợp lý của nhà nước đã dẫn đến nền kinh tế kém phát triển. Thời kỳ bao cấp được ví như “một áng mây đen” bao trùm cả đất nước, chế phân phối theo tem phiếu, ngăn sông cấm chợ làm cho cuộc sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trước tình hình đó, Đảng và nhà nước đã có những chính sách hợp lý nhằm ổn định và phát triển nền kinh tế. Bên cạnh đó, tình hình thế giới ổn định hơn, khả năng duy trì hòa bình lâu dài cho phép chúng ta tập trung vào nhiệm vụ phát triển kinh tế. Giải pháp được đưa ra là xóa bỏ chế độ quan liêu bao cấp chuyển sang nền SXHH kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Chiến lược 10 năm 1991 - 2000 được thực hiện khi nền kinh tế nước ta đang có một số chuyển biến tích cực, nhưng đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu tan vỡ; Mỹ tiếp tục bao vây, cấm vận nước ta; các thế lực thù địch tìm cách chống phá ta về nhiều mặt; những năm cuối thập kỷ 90, nước ta lại chịu tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và bị thiệt hại lớn do thiên tai liên tiếp xảy ra trên nhiều vùng.
Mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức gay gắt, nhìn chung việc thực hiện Chiến lược 1991 - 2000 đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng: Sau mấy năm đầu thực hiện Chiến lược, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng hơn gấp đôi (2,07 lần). Tích lũy nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng, nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1%. (
- Quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại một bước, thích nghi dần với cơ chế mới, hình thành những tổng công ty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt. Kinh tế tập thể có bước chuyển đổi và phát triển đa dạng theo phương thức mới. Kinh tế hộ phát huy tác dụng rất quan trọng trong nông nghiệp; kinh tế cá thể, tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh. Cơ chế quản lý và phân phối có nhiều đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế với hầu khắp các nước, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, chủ động từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu gần gấp ba nhịp độ tăng GDP. Thu hút được một khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên đáng kể. Đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước; bắt đầu phổ cập trung học cơ sở ở một số thành phố, tỉnh đồng bằng. Số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gấp 6 lần. Đào tạo nghề được mở rộng. Năng lực nghiên cứu khoa học được tăng cường, ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến. Các hoạt động văn hóa, thông tin phát triển rộng rãi và nâng cao chất lượng
- Mỗi năm tạo thêm 1,2 - 1,3 triệu việc làm mới. Tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn của nước ta) từ trên 30% giảm xuống 11%. Người có công với nước được quan tâm chăm sóc. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm từ 2,3% giảm xuống 1,4%. Tuổi thọ bình quân từ 65 tuổi tăng lên 68 tuổi. Việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em, chăm lo sức khỏe cộng đồng, phòng, chống dịch bệnh có nhiều tiến bộ. Phong trào thể dục rèn luyện sức khỏe phát triển; thành tích thi đấu thể thao trong nước và quốc tế được nâng lên.
- Cùng với những nỗ lực to lớn của lực lượng vũ trang nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đã tạo điều kiện tăng cường tiềm lực, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
- Phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược kinh tế - xã hội 1991 - 2000 đã được thực hiện. Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hóa xã hội không ngừng tiến bộ; thế và lực của đất nước hơn hẳn 10 năm trước, khả năng độc lập tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).
Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa đủ để vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thế giới và kém nhiều nước xung quanh. Thực trạng kinh tế - xã hội vẫn còn những mặt yếu kém, bất cập, chủ yếu là:
- Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu. Tích lũy nội bộ và sức mua trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng CNH, HDH, gắn sản xuất với thị trường; cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Tình trạng bao cấp và bảo hộ còn nặng. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát và lãng phí. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm mạnh. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế những năm gần đây giảm sút, năm 2000 tuy đã tăng lên nhưng còn thấp hơn mức của những năm giữa thập kỷ 90.
- Quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể phát triển chậm, việc chuyển đổi các hợp tác xã theo Luật ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Các thành phần kinh tế khác chưa phát huy hết năng lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chưa thúc đẩy tiết kiệm, tăng năng suất, kích thích đầu tư phát triển; chênh lệch giàu nghèo tăng nhanh.
- Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống tài chính, ngân hàng, kế hoạch đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế; môi trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ tốt cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Giáo dục, đào tạo còn yếu về chất lượng, cơ cấu đào tạo chưa phù hợp, có nhiều tiêu cực trong dạy, học, và thi cử... Khoa học và công nghệ chưa thật sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Cơ sở vật chất của các ngành y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thông tin, thể thao còn nhiều thiếu thốn. Việc đổi mới cơ chế quản lý và thực hiện xã hội hóa trong các lĩnh vực này triển khai chậm.
- Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng núi, vùng sâu, vùng thường bị thiên tai. Số lao động chưa có việc làm và thiếu việc làm còn lớn. Nhiều tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, nạn ma túy, mại dâm, lây nhiễm HIV-AIDS có chiều hướng lan rộng. Tai nạn giao thông ngày càng tăng. Môi trường sống bị ô nhiễm ngày càng nhiều.
2.1.2 Tình hình nước ta những năm gần đây:
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 được triển khai thực hiện trong tình hình chính trị, xã hội nước ta cơ bản ổn định, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và thực lực nền kinh tế tiếp tục được tăng cường, quan hệ quốc tế không ngừng mở rộng, những tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực năm 1997 đã được khắc phục.
Tuy nhiên, những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị và an ninh quốc tế, sự phục hồi chậm của nền kinh tế thế giới và những biến động giá cả trên thị trường quốc tế, nạn dịch bệnh mới xuất hiện, những diễn biến phức tạp về thời tiết và khí hậu, sự chống phá của các thế lực thù địch đã gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ do Đại hội IX đề ra. Công cuộc phát triển kinh tế - xã hội đã đạt được những thành tựu rất quan trọng nhưng vẫn còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước; hoạt động kinh tế, xã hội còn nhiều yếu kém, bất cập.
Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước:
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001 - 2005) tăng bình quân 7,5%/năm (đạt kế hoạch đề ra). Năm 2005, GDP theo giá hiện hành ước đạt 838 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người trên 10,0 triệu đồng (tương đương khoảng 640 USD).
- Nông nghiệp tiếp tục phát triển khá; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,4%/năm (kế hoạch 4,8%), giá trị tăng thêm tăng khoảng 3,8%/năm. Năng suất, sản lượng và hàm lượng công nghệ trong sản phẩm nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản tăng đáng kể; an ninh lương thực quốc gia được bảo đảm; một số sản phẩm xuất khẩu chiếm được vị trí cao trên thị trường thế giới[3]. Trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng đã có bước tiến; độ che phủ rừng từ 33,7% năm 2000 tăng lên 37,4% năm 2005.
- Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao, giá trị tăng thêm tăng 10,2%/năm. Công nghiệp có bước chuyển biến tích cực về cơ cấu sản xuất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16%/năm (kế hoạch 13,1%), cao hơn 1,9%/năm so với 5 năm trước. Cả nước đã có trên 100 khu công nghiệp, khu chế xuất, nhiều khu hoạt động có hiệu quả; tỉ lệ công nghiệp chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hoá sản phẩm tăng. Công nghiệp ở nông thôn và miền núi tăng trưởng cao hơn tốc độ trung bình của cả nước. Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước. Ngành xây dựng tăng trưởng 10,7%/năm, năng lực xây dựng tăng khá nhanh và có bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại; việc xây dựng đô thị, xây dựng nhà ở đạt nhiều kết quả, hàng năm đưa thêm vào sử dụng khoảng 20 triệu m2.
- Dịch vụ có bước phát triển cả về quy mô, ngành nghề, thị trường và có tiến bộ về hiệu quả với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng 7,6%/năm (kế hoạch 7,5%); giá trị tăng thêm tăng gần 7%/năm (kế hoạch 6,8%). Riêng năm 2005, giá trị tăng thêm tăng 8,5%, cao hơn mức tăng GDP.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng khoảng 15%/năm (kế hoạch 11 - 12%). Ngành du lịch phát triển khá, cả về lượng khách, loại hình và sản phẩm du lịch. Dịch vụ vận tải tăng nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu. Bưu chính - viễn thông phát triển nhanh theo hướng hiện đại, đến cuối năm 2005 đạt 19 máy điện thoại và 3,2 thuê bao Internet trên 100 dân; 100% xã có điện thoại, hầu hết các xã có điểm bưu điện - văn hoá hoặc điểm bưu điện. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn, tin học, kỹ thuật, y tế, giáo dục, đào tạo, văn hoá... đều có bước phát triển.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng CNH – HĐH.
- Về cơ cấu ngành, tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005 (kế hoạch 38 - 39%); tỉ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản đã giảm từ 24,5% xuống còn 20,9% (kế hoạch 20 - 21%); tỉ trọng dịch vụ ở mức 38,1% (kế hoạch 41 - 42%).
- Cơ cấu kinh tế vùng đã có bước điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng; các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu kinh tế và vùng sản xuất chuyên môn hoá cây trồng, vật nuôi đang phát triển khá nhanh, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế.
- Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỉ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng trong tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1% năm 2000 lên 17,9% năm 2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%; lao động trong các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%. Tỉ trọng lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005.
- Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP, chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; trong đó, kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp khoảng 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thương quốc tế.
Đi kèm với sự phát triển về kinh tế là sự thay đổi, phát triển trong văn hóa, giáo dục, giao lưu quốc tế, khoa học công nghệ và sự ổn định về chính trị.
Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới rất quan trọng:
- Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế được mở rộng; việc thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, tiêu biểu nhất là sự kiện Việt Nam chính thức là thành viên của gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã góp phần tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu.
- Xuất khẩu, nhập khẩu tăng nhanh. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 5 năm đạt trên 110,6 tỉ USD, tăng 17,5%/năm, vượt mục tiêu đề ra (kế hoạch 16%/năm); năm 2005, xuất khẩu bình quân đầu người đạt 390 USD, gấp đôi năm 2000. Xuất khẩu dịch vụ 5 năm đạt trên 21 tỉ USD, tăng 15,7%/năm, bằng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường