Đề tài Những kết quả mà phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại đạt được

1. Lý do chọn đề tài Trong lịch sử Việt Nam thời trung đại, giai cấp nông dân có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, phát triển văn hóa. Cùng với truyền thống lao động cần cù, sáng tạo; đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm, giai cấp nông dân Việt Nam còn có truyền thống dũng cảm, đấu tranh chống áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhìn về quá trình phát triển của phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại, chúng ta thấy đến cuối thế kỉ XIV, các cuộc đấu tranh của nông dân chống lại sự áp bức giai cấp đã trở thành hiện tượng xã hội đặc biệt, vì vậy nó chính thức được nhắc đến với khái niệm “phong trào nông dân” hay “khởi nghĩa nông dân”. Theo tiến trình lịch sử, phong trào nông dân có nền tảng từ cuối thế kỉ XIV (cuối vương triều Trần), tiếp tục phát triển trong các thế kỉ XVI- XVII và đạt đến đỉnh cao vào thế kỉ XVIII (thế kỉ XVIII được gọi là “thế kỉ của khởi nghĩa nông dân”)- kết tinh lại trong phong trào nông dân Tây Sơn. Đến đầu thế kỉ XIX, tuy phong trào nông dân diễn ra rầm rộ và quyết liệt nhưng tất cả đều bị đàn áp và cuối cùng đi đến thất bại. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là trong suốt thời trung đại, phong trào nông dân khởi nghĩa đã đạt được kết quả gì? những kết quả này đã tác động như thế nào đối với sự phát triển của xã hội? Làm sáng tỏ được điều này chúng ta sẽ thấy được những cống hiến và đóng góp của phong trào nông dân trong quá trình phát triển của dân tộc. Xuất phát từ ý nghĩa trên, em đi sâu tìm hiểu “những kết quả mà phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại đạt được” để từ đó rút ra những đánh giá và nhận xét khoa học về vai trò của phong trào nông dân Việt Nam trong lịch sử. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại được công bố trên các sách chuyên khảo, tạp chí. Cuốn “Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam” của Nguyến Cảnh Minh, Đào Tố Uyên; Nxb Đại học sư phạm; 2008 là cuốn sách duy nhất đề cấp đến toàn bộ phong trào đấu tranh của nông dân Việt Nam thời trung đại, song nó mới chỉ dừng lại ở mức rất khái quát, sơ lược. Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu khác, mỗi một công trình nghiên cứu đi sâu vào một khía cạnh cụ thể nào đó của phong trào. Chẳng hạn, có một số công trình đề cập đến những vấn đề chung của phong trào (đặc điểm, tính chất, nguyên nhân bùng nổ, nguyên nhân thất bại của phong trào); một số công trình lại đi vào nghiên cứu từng cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa lớn (Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Lê Duy Mật ) Thông qua các công trình này, nhiều nội dung quan trọng đã được giải quyết, nhiều cuộc khởi nghĩa cụ thể đã được nghiên cứu. Tuy nhiên vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào chỉ ra những kết quả mà phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại đạt được. Đó chính là động lực thôi thúc em đi tìm hiểu vấn đề này. Qua quá trình thu thập tài liệu, em thấy có một số bài viết đăng trên các tạp chí đã phản ánh gián tiếp đề tài nghiên cứu. Ví dụ, bài “Vai trò của cuộc khởi nghĩa nông dân trong quá trình phát triển của dân tộc” của Duy Ninh trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 81, 1965; bài “Những cuộc khởi nghĩa của nông dân trong lịch sử Việt Nam” của Văn Tân trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử Số 74, 1965 Các bài viết này đã cung cấp cho em những luận điểm khoa học để trên cơ sở đó em tổng hợp, rút ra những kết quả mà các cuộc khởi nghĩa nông dân thời trung đại đã đạt được. Do hạn chế về nguồn tư liệu cho nên để nghiên cứu đề tài này, em chủ yếu sử dụng những kiến thức đã học và những kiến thức thuộc phần thông sử, vì thế bài nghiên cứu sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tuy nhiên, với lòng say mê nghiên cứu khoa học, em hi vọng bài viết của mình sẽ góp phần nào chỉ ra những kết quả quan trọng nhất mà phong trào nông dân Việt Nam trong lịch sử đã đạt được.

doc36 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8214 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những kết quả mà phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại đạt được, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Phân tích những kết quả theo em phong trào nông dân trong lịch sử trung đại Việt Nam đã đạt được. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong lịch sử Việt Nam thời trung đại, giai cấp nông dân có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, phát triển văn hóa. Cùng với truyền thống lao động cần cù, sáng tạo; đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm, giai cấp nông dân Việt Nam còn có truyền thống dũng cảm, đấu tranh chống áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhìn về quá trình phát triển của phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại, chúng ta thấy đến cuối thế kỉ XIV, các cuộc đấu tranh của nông dân chống lại sự áp bức giai cấp đã trở thành hiện tượng xã hội đặc biệt, vì vậy nó chính thức được nhắc đến với khái niệm “phong trào nông dân” hay “khởi nghĩa nông dân”. Theo tiến trình lịch sử, phong trào nông dân có nền tảng từ cuối thế kỉ XIV (cuối vương triều Trần), tiếp tục phát triển trong các thế kỉ XVI- XVII và đạt đến đỉnh cao vào thế kỉ XVIII (thế kỉ XVIII được gọi là “thế kỉ của khởi nghĩa nông dân”)- kết tinh lại trong phong trào nông dân Tây Sơn. Đến đầu thế kỉ XIX, tuy phong trào nông dân diễn ra rầm rộ và quyết liệt nhưng tất cả đều bị đàn áp và cuối cùng đi đến thất bại. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là trong suốt thời trung đại, phong trào nông dân khởi nghĩa đã đạt được kết quả gì? những kết quả này đã tác động như thế nào đối với sự phát triển của xã hội? Làm sáng tỏ được điều này chúng ta sẽ thấy được những cống hiến và đóng góp của phong trào nông dân trong quá trình phát triển của dân tộc. Xuất phát từ ý nghĩa trên, em đi sâu tìm hiểu “những kết quả mà phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại đạt được” để từ đó rút ra những đánh giá và nhận xét khoa học về vai trò của phong trào nông dân Việt Nam trong lịch sử. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại được công bố trên các sách chuyên khảo, tạp chí. Cuốn “Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam” của Nguyến Cảnh Minh, Đào Tố Uyên; Nxb Đại học sư phạm; 2008 là cuốn sách duy nhất đề cấp đến toàn bộ phong trào đấu tranh của nông dân Việt Nam thời trung đại, song nó mới chỉ dừng lại ở mức rất khái quát, sơ lược. Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu khác, mỗi một công trình nghiên cứu đi sâu vào một khía cạnh cụ thể nào đó của phong trào. Chẳng hạn, có một số công trình đề cập đến những vấn đề chung của phong trào (đặc điểm, tính chất, nguyên nhân bùng nổ, nguyên nhân thất bại của phong trào); một số công trình lại đi vào nghiên cứu từng cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa lớn (Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Lê Duy Mật…)… Thông qua các công trình này, nhiều nội dung quan trọng đã được giải quyết, nhiều cuộc khởi nghĩa cụ thể đã được nghiên cứu. Tuy nhiên vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào chỉ ra những kết quả mà phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại đạt được. Đó chính là động lực thôi thúc em đi tìm hiểu vấn đề này. Qua quá trình thu thập tài liệu, em thấy có một số bài viết đăng trên các tạp chí đã phản ánh gián tiếp đề tài nghiên cứu. Ví dụ, bài “Vai trò của cuộc khởi nghĩa nông dân trong quá trình phát triển của dân tộc” của Duy Ninh trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 81, 1965; bài “Những cuộc khởi nghĩa của nông dân trong lịch sử Việt Nam” của Văn Tân trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử Số 74, 1965… Các bài viết này đã cung cấp cho em những luận điểm khoa học để trên cơ sở đó em tổng hợp, rút ra những kết quả mà các cuộc khởi nghĩa nông dân thời trung đại đã đạt được. Do hạn chế về nguồn tư liệu cho nên để nghiên cứu đề tài này, em chủ yếu sử dụng những kiến thức đã học và những kiến thức thuộc phần thông sử, vì thế bài nghiên cứu sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tuy nhiên, với lòng say mê nghiên cứu khoa học, em hi vọng bài viết của mình sẽ góp phần nào chỉ ra những kết quả quan trọng nhất mà phong trào nông dân Việt Nam trong lịch sử đã đạt được. NỘI DUNG Trước khi tìm hiểu kết quả đạt được của các cuộc khởi nghĩa nông dân trong lịch sử, chúng ta phải biết được mục tiêu các cuộc khởi nghĩa nông dân hướng tới là gì, để trên cơ sở đó có thể so sánh, đối chiếu, xem xem người nông dân có đạt được những kết quả như họ đã đề ra khi khởi nghĩa hay không. 1.Mục tiêu của các cuộc khởi nghĩa nông dân Việt Nam thời trung đại Bức tranh lịch sử Việt Nam thời trung đại sẽ không hoàn chỉnh nếu không nhắc tới phong trào đấu tranh của nông dân chống lại chế độ phong kiến. Vậy nguyên nhân nào đưa đến các cuộc đấu tranh giai cấp của nông dân trong xã hội phong kiến Việt Nam? Thứ nhất, phong trào nông dân bùng nổ do nhu cầu ruộng đất (do thiếu ruộng đất cày cấy). Vấn đề ruộng đất là vấn đề chủ yếu, là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khởi nghĩa nông dân. Tùy từng giai đoạn cụ thể mà vấn đề ruộng đất là nguyên nhân hoặc nguyên nhân trực tiếp đưa đến khởi nghĩa nông dân. Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển, các cuộc khởi nghĩa chưa đặt ra vấn đề ruộng đất là nhu cầu thiết thân, thường xuyên của người nông dân. Thứ hai, chính sách tô thuế của nhà nước phong kiến là một trong những nguyên nhân đưa đến khởi nghĩa nông dân. Vì chính sách tô thuế của nhà nước phong kiến nặng nề đã khiến cho nông dân không thể bám trụ trên mảnh đất của mình, làm cho họ khổ cực, phiêu tán và đứng lên khởi nghĩa. Thứ ba, sự thối nát, sa đọa của tầng lớp cầm quyền và chính sách kinh tế- xã hội của nhà nước phong kiến không chăm lo đến đời sống của nhân dân cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến khởi nghĩa nông dân. Thứ tư, thiên tai, mất mùa đói kém, dịch bệnh hoành hành cũng là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khởi nghĩa nông dân. Như vậy, dưới chế độ phong kiến, sự sa đọa của tầng lớp cầm quyền, tình trạng tư hữu ruộng đất phát triển, chính sách tô thuế nặng nề của nhà nước phong kiến cùng với những tác động của tự nhiên như thiên tai, hạn hán, bão lụt đã trở thành những nguyên nhân đẩy người nông dân đến con đường cùng, và không còn con đường nào khác họ đã nổi dậy đấu tranh. Khi nổi dậy khởi nghĩa, người nông dân nhằm giành cả mục tiêu kinh tế lẫn mục tiêu chính trị. Những mục tiêu đó có khi được cụ thể bằng khẩu hiệu, nhưng cũng có khi lại không đặt thành khẩu hiệu rõ rệt. 1.1 Về mục tiêu kinh tế: Sống trong một đất nước nông nghiệp với trên 90% dân số là nông dân, gắn bó thiết tha với ruộng đất, cho nên người nông dân khi nổi dậy đấu tranh suy cho cùng là để giành lấy quyền dân chủ: quyền được cày cấy, quyền được sống yên lành trong tình làng nghĩa xóm. Trong trường hợp không còn ruộng đất để cày cấy, phải phiêu tán khỏi làng xã và khi thân phận bị dày xéo thì người nông dân vùng dậy đấu tranh để bảo vệ quyền dân chủ tối thiểu của mình. Tuy nhiên, trong lịch sử khởi nghĩa, nông dân chưa bao giờ đặt ruộng đất thành khẩu hiệu đấu tranh mà chỉ đề ra các khẩu hiệu đòi quyền lợi kinh tế trước mắt. Đó là các khẩu hiệu: “Chẩn cứu dân nghèo”, “lấy của nhà giàu chía cho người nghèo”, “ninh dân”, “bảo dân”…thậm chí có lúc mang tính chất trả thù như “treo người”, “đổ nước vào mũi”, “bỏ hạt thóc vào mắt rồi khâu lại”, “giam vào nhà có rắn, rết, đỉa” (trong phong trào nông dân thế kỉ XVIII)… Ví dụ: Trong khởi nghĩa nông dân thế kỉ XIV có khẩu hiệu như sau: (năm 1358), “Ngô Bệ lại đem đảng của chúng họp ở núi Yên Phụ, dựng cờ lớn trên núi, tiếm xưng vị hiệu, yết bảng chẩn cứu dân nghèo. Tữ xã Thiên Liêu đến huyện Chí Linh, Bệ chiếm giữ hết”. Khởi nghĩa nông dân thế kỉ XVI- XVII “Bấy giờ nhân dân tứ chiếng bị làm phiền vì việc cắt cỏ voi, lại bị người sở quản quấy nhiễu, dân khổ không chịu nổi, nhiều người đi theo đảng ngụy, cướp bóc dân gian” [13; 738] Khởi nghĩa nông dân thế kỉ XVIII: Năm 1740, tháng 10, “Quân ở vùng đông nam nổi dậy, đốt phá cướp bóc châu huyện, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ ở Ninh Xá thế lực đương hăng, mà bọn giặc Ngân Già Vũ Đình Dung lại càng tinh quái hung tợn. Chỗ ở của bọn này không có tường lũy gì, chỉ dựa vào nơi bùn lầy làm hiểm trở, đồ đảng thì nanh ác mạnh tợn, không sợ chết. Gặp quan quân, chúng liền vác dao xông vào chém bừa bãi, các tướng nhiều lần bị thua” [13; 841] Đặc biệt là trong khởi nghĩa Tây Sơn, anh em Nguyễn Huệ đã "lấy của cải bọn quan lại và bọn nhà giàu phân phát cho dân nghèo. Những làng mạc bị thuế má hà khắc đè nặng đã nhiệt liệt tuyên thệ hưởng ứng khởi nghĩa”. Khởi nghĩa nông dân thế kỉ XIX: Mục đích “mong cướp bóc để sinh sống” ở cuộc khởi nghĩa Nông Văn Sỹ, Nông Văn Hoành ở địa hạt Cảm Hóa, Thái Nguyên [13; 240] 1.2 Mục tiêu chính trị Khởi nghĩa nông dân thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp. “Trong xã hội phong kiến với hai giai cấp cơ bản là nông dân và địa chủ phong kiến thì cuộc đấu tranh giai cấp chủ yếu là đấu tranh giữa nông dân với địa chủ phong kiến nhằm thúc đẩy xã hội phong kiến tiến lên, để khi điều kiện sản xuất mới đã có, thì tiêu diệt luôn cả giai cấp phong kiến, chế độ phong kiến và tính chất phong kiến của xã hội” [10; 92-93] Ở Việt Nam, các cuộc khởi nghĩa nông dân tuy chưa đòi lật đổ chế độ, triều đại phong kiến đương thời để thiết lập một chế độ xã hội khác tiến bộ hơn, không còn sự áp bức giai cấp (do điều kiện lịch sử quy định) nhưng đã hướng tới mục tiêu: chống lại triều đình phong kiến thối nát nhằm thiết lập một triều đại khác tiến bộ hơn và tấn công vào tầng lớp địa chủ, quan lại từ trung ương đến địa phương, vì đây là kẻ trực tiếp thống trị, bóc lột nông dân. Ví dụ: Phong trào nông dân thế kỉ XIV nhân dân đã nổi dậy chống lại quý tộc nhà Trần, đánh trực diện vào trung ương như khởi nghĩa của Phạm Sư Ôn, đánh cả vào kinh thành, ở lại ba ngày rồi rút. Trong khởi nghĩa nông dân thế kỉ XVIII, nhân dân đã chống lại quan lại địa phương, tấn công vào chính quyền trung ương. “Tháng 8/1740, quân của Nguyễn Tuyển- Nguyễn Cừ uy hiếp Thăng Long. Tháng 10/1740, quân ở vùng Đông Nam nổi dậy cướp phá các châu, huyện” [ dẫn theo 5] Với khẩu hiệu : “ủng hộ Hoàng Tôn Dương, đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan” và “phù Lê diệt Trịnh”, khởi nghĩa nông dân Tây Sơn cũng đề cao mục tiêu giai cấp, đánh vào chính quyền phong kiến mục nát. Năm 1775, “Đêm hôm ấy, đồ đảng của Nhạc lén đến ngoài thành, Nhạc liền phá cũi mà ra, mở toang cửa thành, đốt doanh trại, giết tướng giữ trấn, bèn chiếm cứ thành Quy Nhơn. Hào mục bản thổ đua nhau nổi dậy hưởng ứng với Nhạc, thế giặc càng ngày càng bùng lên” [13; 935] “Lúc ấy, xa giá Huệ Tông Hiếu Định hoàng đế ta chạy vào Gia Định, lập Mục Vương làm thái tử xưng là đông cung ở lại trấn phủ Quảng Nam, đóng ở xã Câu Đê, để chống cự lại. Văn Nhạc định mưu dựa vào danh nghĩa để lừa dối dân chúng, bèn sai bọn Lý Tài rước đông cung về Hội An” [13; 935] Chính những mục tiêu về kinh tế và chính trị nêu trên đã chi phối nhiều đến kết quả đấu tranh mà phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại đạt được. 2. Kết quả đạt được của phong trào nông dân trong lịch sử trung đại Việt Nam. Nghiên cứu toàn bộ các phong trào nông dân trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam để tìm ra kết quả của từng phong trào một là một công việc phức tạp , đòi hỏi nhiều thì giờ, nhiều tài liệu mà hiện nay chúng ta chưa thể làm ngay được. Trên cơ sở tìm hiểu một cách khái quát các phong trào nông dân điển hình trong các thế kỉ XIV, XVI- XVII, XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX, em sẽ chỉ ra những kết quả chung mà phong trào nông dân trong các thế kỉ trên đã đạt được, qua đó có thể nhận xét và đánh giá về các kết quả này. Các cuộc khởi nghĩa nông dân trong lịch sử nhìn chung đều thất bại (trừ khởi nghĩa Tây Sơn). Sự thất bại này do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Tuy nhiên trong một chừng mực nhất định, nó đã đạt được những kết quả sau đây: 2.1 Về kinh tế Với khẩu hiệu “cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo”, một số cuộc khởi nghĩa sau khi chiếm được của cải của bọn nhà giàu đã tiến hành phân phát cho dân nghèo, tiêu biểu là: Trong cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu (1741- 1751), Nguyễn Hữu Cầu đã tham gia cướp của các thuyền buôn cứu giúp dân nghèo. Những năm 1739- 1740, Hữu Cầu tổ chức cướp thuyền buôn lấy thóc gạo phân phát cho dân đói. Năm 1742, Hữu Cầu lấy Đồ Sơn và Vân Đồn, Trà Cổ làm căn cứ chính, xây dựng lực lượng, đóng thuyền làm vũ khí, luyện tập quân sĩ “Nghĩa quân thường cướp của nhà giàu, cướp thóc gạo của các chủ thuyền buôn giàu đem chia cho dân nghèo đói nên đi đến đâu người theo đến đó”[7; 403] Trong khởi nghĩa Tây Sơn, các giáo sĩ phương Tây có mặt ở nước ta lúc bấy giờ đều xác nhận rằng anh em Nguyễn Huệ đã “ lấy những của quý đem chia cho dân nghèo, chỉ giữ gạo và thực phẩm cho họ mà thôi. Người ta gọi họ là bọn giặc nhân đức đối với người nghèo khổ”. Hoặc trong một số cuộc khởi nghĩa, tuy không nói đến nghĩa quân phân phát của cải cho dân nghèo, nhưng việc cướp bóc của cải của nghĩa quân cùng những khẩu hiệu mà họ đưa ra như “ninh dân”, “chẩn cứu dân nghèo” người viết có thể suy ra điều đó: Năm 1740, Doanh nói: “... Danh Phương chẳng qua chỉ là tên giặc tự giữ một xó một thôi. Còn như vùng đông nam là nơi đẻ ra của cải thuế khóa của quốc gia; nay vùng này bị Hữu Cầu và Công Chất liên kết với nhau, hàng ngày đốt phá cướp bóc thả cửa, vậy bây giờ trước hết phải quét sạch vùng đông nam, để gở mối lo nguy cấp cho dân...” [13; 837] Năm 1752, “Trước đây, Tương cùng Lê Duy Mật chiếm cứ xã Ngọc Lâu và Vĩnh Đồng, khi nào quan quân kéo đến thì chúng tan tác chạy ngay, khi quan quân đi rồi, chúng lại cướp bóc tứ tung” [13; 885] Năm 1766, “Giặc (sót họ tên) ở thượng du vùng Sơn Tây tự xưng hiệu là Thuận Nghĩa, tụ hợp quân chúng đi cướp bóc” [13; 907] Năm 1767, “Hoàng Văn Chất quấy nhiễu cướp bóc các châu Mai, Châu Mộc thuộc Hưng Hóa; sau đấy chia quân đi cướp các động, các sách Quan Gia, Cổ Lũng, Thiết Úng, Ái Chữ và Bất Mộc thuộc Thanh Hoa; rồi lại lập mưu đánh úp huyện Phụng Hóa, định nhân đấy chiếm cứ châu Lang Chính để nhòm ngó An Trường. Quân chúng của hắn gồm hai vạn người” [13; 914] Trong quá trình đấu tranh, khi tạm thời giành được những thắng lợi nhất định, một số cuộc khởi nghĩa, nghĩa quân đã tiến hành nhiều chính sách về kinh tế. Trong cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật, vào năm 1752, nghĩa quân rút về vùng thượng du Thanh Hóa, Nghệ An, tại đây ông đã cho xây dựng nhiều đồn lũy, đào kênh, lập chợ, dựng lò rèn, đúc vũ khí, cho quân sĩ cùng nhân dân cày cấy ruộng đất, tích lũy lương thực. Tại Hưng Hóa, Sơn La, Điện Biên, Hoàng Công Chất đã vận động nhân dân cùng nghĩa quân xây dựng thành lũy kiên cố ở Noong Het (Điện Biên), tổ chức cho nhân dân khai hoang, tăng gia sản xuất, chống lại các cuộc tấn công của quân triều đình. Trong gần 20 năm, cuộc sống của nhân dân vùng nghĩa quân chiếm đóng tương đối yên tĩnh. “Người Thái còn lưu truyền những câu thơ: Chúa thật là yêu dân, chúa xây dựng bản mường, mọi người được yên ổn làm ăn…Nghe chăng tiếng hát của Keo Chất trong phủ, ngân vang khắp cánh đồng Mường Thanh bao la” [7; 406] Năm 1750, khi Nguyễn Danh Phương đã cai quản được một vùng khá rộng lớn với đại đồn là vùng núi Ngọc Bội, trung đồn là Hương Canh, ngoại đồn là Úc Kỳ cùng các đồn lũy riêng thì “Quân đóng ở đâu cũng đều làm ruộng, chứa thóc, làm kế cố giữ”[606; Việt sử thông giám cương mục] T2 Ngoài ra nghĩa quân còn nắm lấy các nguồn lợi về chè, tre, sơn, gỗ, hầm mỏ để phục vụ việc xây dựng, chế tạo vũ khí, quân nhu, chuẩn bị chiến đấu lâu dài. Đặc biệt, trong khởi nghĩa nông dân Tây Sơn, khi giành được thắng lợi, triều đại này đã ban hành những chính sách phục hồi kinh tế tích cực, cải thiện cuộc sống cho người nông dân. Đối với nông nghiệp: Năm 1789, chiếu khuyến nông được ban bố: “Trẫm chịu mệnh trời, thanh bình bốn bể. Đến nay là lúc bắt đầu ổn định thì việc khuyến nông tang làm cho nước được phồn thịnh, cần phải thứ tự tiến hành. Xét ra phương pháp bảo hộ dân không gì bằng việc chiêu tập dân lưu vong, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, làm thế nào cho dân du thủ, du thực để chuyển về hướng làm ruộng”. Theo tinh thần của chiếu khuyến nông ấy, công việc khuyến nông và phục hồi sản xuất nông nghiệp được tiến hành với những nội dung sau: Thứ nhất, dân lưu tán phải nhanh chóng trở về quê cũ, xã nào chứa chấp người trốn tránh phải bị trừng phạt. Thứ hai, hạn đến tháng 9 năm Kỉ Dậu (tức tháng 10 năm 1789) xã phải làm xong sổ ruộng nộp lên. Thứ ba, hạn trong ba năm, ruộng đất trong xã phải được cày cấy “xã nào có ruộng hoang – mà để quá hạn không khai khẩn nếu là ruộng quang thì quan viên sắc mục và các gia đình trong xã phải chịu thuế gấp đôi so với ngạch thuế cũ, nếu là ruộng tư thì đem ruộng ấy sung công, ngạch thuế cũng phải chịu như ruộng quan”. [14,22]. Đồng thời với việc khuyên dân chăm lo việc cơ bản và tìm mọi biện pháp để ruộng không bỏ hoang, Nguyễn Huệ lại chăm chú giải quyết vấn đề nhân công trong sản xuất nông nghiệp Về thuế ruộng đất, năm 1789, vua Quang Trung hạ chiếu cho các trấn sửa lại sổ điền để đánh thuế cho công bằng, ruộng công và ruộng tư chia làm ba hạng như sau: Ruộng công mỗi mẫu nộp từ 50 bát (hạng 3) đến 150 bát (hạng nhất). Ruộng tư mỗi mẫu nộp từ 20 bát (hạng 3) đến 40 bát (hạng nhất). Ngoài ra mỗi mẫu còn phải nộp một khoản tiền về tiền thập vật và ba mươi đồng về tiền khoán khố. Các cách này được Quang Trung hạ lệnh cho triển khai tuần tự từ trung ương đến địa phương nhằm giải quyết những khó khăn của nông nghiệp trong suốt một thời gian dài loạn ly, chiến tranh liên miên. Đối với thủ công nghiệp và thương nghiệp: Quang Trung chủ trương khuyến khích phục hồi và mở rộng các làng thủ công cũng như trao đổi buôn bán trong nước và nước ngoài. Trong thương nghiệp, chú trọng giao lưu kinh tế với các nước láng giềng, từ đó kinh tế nước ta mới phát triển. Về tài chính: Chính quyền Quang Trung cho đúc tiền mới để tiêu dùng. Thuế khóa được định lại từ các loại thuế thân, phụ thu, các loại thuế công thương nghiệp. Nhìn chung với các chính sách phục hồi kinh tế, cuộc sống của nhân dân cũng đã được dần hồi phục. Như vậy, khởi nghĩa nông dân thường nổ ra vào giai đoạn khủng hoảng suy vong của chế độ phong kiến, do chính sách tô thuế các loại, do thiên tai, dịch bệnh, mất mùa, đói kém làm cho nông dân lưu vong, phiêu tán. Khi nổi dậy khởi nghĩa, họ nhằm chống lại chính quyền phong kiến, cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo để giải quyết nhu cầu cấp thiết trước mắt là đói. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã làm được điều này. 2.2 Phong trào nông dân đã chĩa mũi nhọn, tấn công trực tiếp vào triều đình phong kiến, quan lại địa chủ từ trung ương đến địa phương Ngay từ đầu nhà nước phong kiến trung ương (triều đình) và bọn quan lại, địa chủ ở địa phương đã là đối tượng chính của các cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân như: Khởi nghĩa Ngô Bệ, Nguyễn Nhữ Cái, Phạm Sư Ôn…thời cuối Trần; Khởi nghĩa Trần Cảo, Phạm Hãng thế kỉ XVI; Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Lê Duy Mật, Hoàng Công Chất, phong trào Tây Sơn thế kỉ XVIII, khởi nghĩa Phan Bá Vành, Cao Bá Quát, Lê Hữu Tạo nửa đầu thế kỉ XIX…Điều đó cho thấy nhân dân đã xác định đúng đối tượng đấu tranh để giải phóng mình khỏi ách áp bức giai cấp. - Các cuộc khởi nghĩa nông dân đã chống lại quân đội triều đình, tấn công vào chính quyền của nhà nước phong kiến từ thấp đến cao (làng xã, phủ, huyện, thậm chí còn tấn công cả kinh thành Thăng Long – đại bản doanh của chính quyền trung ương). Một số cuộc khởi nghĩa chiếm được chính quyền trong một thời gian ngắn. Đó là: Khởi nghĩa thế kỉ XIV: Cuộc khởi nghĩa của Phạm Sư Ôn đã “đem quân xâm phạm thẳng vào kinh sư, nhà vua và thượng hoàng phải lánh sang Bắc Giang. Sư ôn ở kinh thành 3 ngày, rồi kéo ra đóng ở Nộn Châu” [13; 310] Khởi nghĩa thế kỉ XVI- XVII: Trong cuộc khởi nghĩa của Trần Cảo một chính quyền riêng đã được lập ra, tuy còn sơ sài và tồn tại trong thời gian ngắn: “Ngày 11, Trần Cảo lấy kinh thành, tiếm đặt niên hiệu là Thiên Ứng, ra chầu làm việc, dùng Lê Quảng Độ coi việc nước” [3 ;562] Khởi nghĩa thế kỉ XVIII: Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương, thành lập được một chính quyền cát cứ: Năm 1750, “Nhưng khi triệu vào triều thì Danh Phương không nhận mệnh lệnh, lại làm phản, chiếm cứ núi Ngọc Bội làm sào huyệt, tự xưng là Thuận T
Luận văn liên quan