Mặc dù mới ra đời nhưng trước năm 1945, cải lương đã có số lượng tác
giả và tác phẩm rất lớn để phục vụ cho nhu cầu của đông đảo quần chúng cả
miền Nam lẫn miền Bắc. Vì đây là loại hình nghệ thuật mới, có sự dung hòa
giữa loại hình nghệ thuật phương Tây là kịch nói và kịch hát dân tộc nên đã
đáp ứng được nhu cầu của đại bộ phận khán giả thời bấy giờ. Để đáp ứng
được nhu cầu của quần chúng và để có những vở cải lương biểu diễn kịp thời
cho công chúng, bên cạnh việc tự sáng tác, các soạn giả đã chuyển thể những
tiểu thuyết Việt Nam và Trung Quốc rất “ăn khách” thời bấy giờ. Chính vì
vậy, có những khuynh hướng sáng tác kịch bản cải lương trước năm 1945 là:
dựa vào các tác phẩm văn học Việt Nam, dựa vào văn học các nước, dựa vào
lịch sử Việt Nam, dựa vào các loại hình nghệ thuật khác và phản ánh xã hội,
đề cao đạo lý. Trong số 137 kịch bản cải lương trước năm 1945 mà chúng tôi
sưu tầm được, chiếm tỷ lệ nhiều nhất là những vở cải lương phóng tác tiểu
thuyết Trung Quốc. Theo chúng tôi, nguyên nhân là vì trong thời kỳ đầu mới
ra đời, các soạn giả vẫn còn dè dặt trong việc tự sáng tác do lúc bấy giờ hát
bội vẫn còn một chỗ đứng nhất định, các soạn giả vẫn giữ thói quen diễn lại
“tuồng xưa tích cũ”. Mặt khác, với sự phát triển của văn học dịch, nhiều tiểu
thuyết Trung Quốc được phổ biến ở Việt Nam và được đông đảo nhân dân
yêu thích như: Tây du ký, Tam Quốc chí, Phong thần diễn nghĩa, Tái sanh
duyên, Chung Vô Diệm, Vạn Huê Lầu, Thuyết Đường, Phản Đường, Quần
anh kiệt, Tiết Đình San chinh Tây, Anh hùng náo tam môn giai Chính vì
thế, các soạn giả cải lương đã đưa những tiểu thuyết này lên sân khấu để vừa
thu hút sự tò mò của khán giả vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu xã hội
51 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2599 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những khuynh hướng sáng tác kịch bản cải lương Nam Bộ trước năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn thạc sĩ
Những khuynh hướng sáng tác kịch
bản cải lương Nam Bộ trước năm
1945
Đào Lê Na
Mặc dù mới ra đời nhưng trước năm 1945, cải lương đã có số lượng tác
giả và tác phẩm rất lớn để phục vụ cho nhu cầu của đông đảo quần chúng cả
miền Nam lẫn miền Bắc. Vì đây là loại hình nghệ thuật mới, có sự dung hòa
giữa loại hình nghệ thuật phương Tây là kịch nói và kịch hát dân tộc nên đã
đáp ứng được nhu cầu của đại bộ phận khán giả thời bấy giờ. Để đáp ứng
được nhu cầu của quần chúng và để có những vở cải lương biểu diễn kịp thời
cho công chúng, bên cạnh việc tự sáng tác, các soạn giả đã chuyển thể những
tiểu thuyết Việt Nam và Trung Quốc rất “ăn khách” thời bấy giờ. Chính vì
vậy, có những khuynh hướng sáng tác kịch bản cải lương trước năm 1945 là:
dựa vào các tác phẩm văn học Việt Nam, dựa vào văn học các nước, dựa vào
lịch sử Việt Nam, dựa vào các loại hình nghệ thuật khác và phản ánh xã hội,
đề cao đạo lý. Trong số 137 kịch bản cải lương trước năm 1945 mà chúng tôi
sưu tầm được, chiếm tỷ lệ nhiều nhất là những vở cải lương phóng tác tiểu
thuyết Trung Quốc. Theo chúng tôi, nguyên nhân là vì trong thời kỳ đầu mới
ra đời, các soạn giả vẫn còn dè dặt trong việc tự sáng tác do lúc bấy giờ hát
bội vẫn còn một chỗ đứng nhất định, các soạn giả vẫn giữ thói quen diễn lại
“tuồng xưa tích cũ”. Mặt khác, với sự phát triển của văn học dịch, nhiều tiểu
thuyết Trung Quốc được phổ biến ở Việt Nam và được đông đảo nhân dân
yêu thích như: Tây du ký, Tam Quốc chí, Phong thần diễn nghĩa, Tái sanh
duyên, Chung Vô Diệm, Vạn Huê Lầu, Thuyết Đường, Phản Đường, Quần
anh kiệt, Tiết Đình San chinh Tây, Anh hùng náo tam môn giai…Chính vì
thế, các soạn giả cải lương đã đưa những tiểu thuyết này lên sân khấu để vừa
thu hút sự tò mò của khán giả vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu xã hội. Dưới đây
là biểu đồ thể hiện tỷ lệ những khuynh hướng sáng tác kịch bản trước 1945:
Đơn vị: %
Dựa vào
văn học
Việt Nam
Dựa vào
lịch sử
Việt Nam
Dựa vào
các loại
hình nghệ
thuật khác
Dựa vào
văn học
nước
ngoài
Phản ánh
xã hội, đề
cao đạo lý
Tổng
8.7 4.35 3.62 57.97 25.36
100.00
Hình 2.1: Biểu đồ thể hiện các khuynh hướng sáng tác kịch bản cải lương
trước năm 1945
2.1. Dựa vào các tác phẩm văn học Việt Nam:
Các vở cải lương trước 1945 dựa vào các tác phẩm văn học Việt Nam chiếm
số lượng tương đối lớn hơn so với các vở cải lương dựa vào lịch sử Việt Nam
và dựa vào các loại hình nghệ thuật khác. Nguyên nhân là thời kỳ này, tiểu
thuyết bằng chữ quốc ngữ ở Nam bộ bắt đầu phát triển mạnh và được nhiều
người yêu thích, đặc biệt là: tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết tình cảm.
Trong số các soạn giả cải lương thời kỳ này có một bộ phận là tiểu thuyết gia
nên văn phong và cấu trúc tiểu thuyết của họ rất phù hợp cho việc chuyển
thể. Chẳng hạn như: Giọt máu chung tình của Tân Dân Tử. Mặt khác, một bộ
phận soạn giả thấy được trong một số tiểu thuyết quốc ngữ Việt Nam thời
bấy giờ có nội dung phù hợp để chuyển thể thành kịch bản cải lương. Đó là
những tiểu thuyết có sự hấp dẫn về nhân vật, cấu trúc và ý nghĩa xã hội. Ví
dụ như: Giọt máu chung tình của Tân Dân Tử, Tiểu anh hùng Võ Kiết, Châu
về hiệp phố của Phú Đức…
Khuynh hướng sáng tác dựa vào các tác phẩm văn học Việt Nam chia làm ba
loại: dựa vào truyện kể dân gian Việt Nam, dựa vào truyện Nôm Việt Nam và
dựa vào tiểu thuyết Việt Nam. Trong Văn học Nam bộ từ đầu thế kỷ đến giữa
thế kỷ XX (1900-1954) của Hoài Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp có đề cập
đến một số vở cải lương lấy đề tài từ văn học dân gian Việt Nam như: Nhân
vật đạo đồng (tức Vè con cua) của Nguyễn Văn Môn, soạn theo Truyện đời
xưa của Trương Vĩnh Ký, Ngốc tử cưỡi củi của Phạm Thị Phượng, Gánh củi
trạng nguyên của Huỳnh Thủ Trung…nhưng trong 137 kịch bản cải lương
Nam Bộ trước năm 1945 mà chúng tôi sưu tầm được không có những văn
bản nêu trên do đó chúng tôi không khảo sát.
So với các đề tài khác, những vở cải lương lấy đề tài từ cổ tích, thần thoại
thường rất ít theo chúng tôi có nguyên nhân sau: cải lương ra đời trong tình
hình đất nước đang bị giặc ngoại xâm xâm lược, phong trào yêu nước phát
triển mạnh. Bên cạnh đó, những vấn đề xã hội do Âu hóa cũng ngày càng lan
rộng. Thế nên, cải lương cũng phải phát triển theo để kịp phản ánh những vấn
đề thời đại. Chính vì vậy, các soạn giả hoặc là sáng tác những vở cải lương xã
hội, hoặc là phóng tác dựa trên những tác phẩm văn học mang chủ đề yêu
nước. Trong khi đó, cổ tích thần thoại Việt Nam đa số theo mô típ “ở hiền
gặp lành”, người tốt thường có hoàn cảnh khó khăn sau đó được thần linh cứu
giúp trở nên thành công và có thể cưới được công chúa hoặc có một kết thúc
có hậu nào đấy. Trong những câu chuyện cổ tích và thần thoại Việt Nam, yếu
tố may mắn, thế lực bên ngoài, thế lực siêu nhiên đóng vai trò quan trọng cho
nhân vật giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, trong tình hình đất nước hiện tại, quần
chúng sẽ không còn tin vào điều đó mà phải để tự thân nhân vật giải quyết
vấn đề của mình. Hơn nữa, những tác phẩm cải lương hiện tại còn định
hướng cho phong trào đấu tranh của quần chúng nên thường nhấn mạnh vào
vị trí và vai trò của những cá nhân anh hùng để cho quần chúng noi theo, học
tập.
Trong số 137 kịch bản cải lương mà chúng tôi sưu tầm được, các kịch bản cải
lương lấy nguồn cảm hứng từ văn học Việt Nam chỉ có hai loại: dựa vào
truyện Nôm Việt Nam và dựa vào tiểu thuyết Việt Nam thể hiện bằng kết quả
sau:
Đơn vị: %
Dựa vào truyện Nôm
Việt Nam
Dựa vào tiểu
thuyết Việt Nam
58.33 41.67
Hình 2.2: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ các nguồn ảnh hưởng của văn học Việt Nam
đối với kịch bản cải lương
Từ biểu đồ trên có thể thấy, các kịch bản cải lương dựa vào truyện Nôm
chiếm tỷ lệ cao hơn các kịch bản cải lương dựa vào tiểu thuyết Việt Nam
nhưng không phải quá chênh lệch. Theo chúng tôi, nguyên nhân truyện Nôm
Việt Nam vẫn có ảnh hưởng lớn đối với các kịch bản cải lương là do so với
tiểu thuyết Việt Nam, truyện Nôm là thể loại văn học ra đời trước hơn và đã
khẳng định được vị trí trong văn học Việt Nam mà đỉnh cao là Truyện Kiều.
Thứ hai, truyện Nôm chủ yếu được viết bằng thể thơ lục bát của dân tộc nên
gần gũi với lời ca trong cải lương, dễ chuyển thể, dễ ngâm và nói lối. Thứ ba
là, cốt truyện của truyện thơ Nôm dù có tác giả như Truyện Kiều, Lục Vân
Tiên hay khuyết danh như Quan Âm Thị Kính hay Lâm tuyền kỳ ngộ thì vẫn
rất gần gũi với quần chúng, được lưu truyền rộng rãi trong dân gian và được
quần chúng yêu thích, ngâm, kể. Trong khi đó, tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ
vẫn còn khá xa lạ đối với nhân dân vì nhiều người không biết đọc. Cách kể
chuyện của tiểu thuyết Việt Nam còn khá lạ so với tiểu thuyết chương hồi của
Trung Quốc nên khi lựa chọn để chuyển thể, các soạn giả cải lương cũng cân
nhắc cẩn thận. Hơn nữa, số lượng tiểu thuyết Việt Nam thời bấy giờ so với
truyện thơ Nôm Việt Nam và tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc đang được
dịch và đăng tải ồ ạt trên các tờ báo ít hơn rất nhiều.
2.1.1. Kịch bản cải lương dựa vào truyện Nôm Việt Nam:
Những truyện Nôm được các soạn giả chuyển thể thành kịch bản cải lương
trước 1945 theo chúng tôi khảo sát gồm có: Truyện Kiều của Nguyễn Du,
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, Nhị độ mai (truyện Nôm khuyết
danh), Quan âm Thị Kính (khuyết danh), Lâm tuyền kỳ ngộ (khuyết danh).
Ngay từ khi mới ra đời, cải lương đã dựa vào Truyện Kiều và Lục Vân Tiên
để sáng tác. Đó là hai vở cải lương Lục Vân Tiên và Kim Vân Kiều của soạn
giả Trương Duy Toản. Sở dĩ Trương Duy Toản chọn hai vở này để viết kịch
bản cải lương theo chúng tôi có những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Lục Vân Tiên và Kim Vân Kiều là hai truyện Nôm cực kỳ nổi
tiếng của dân tộc ta. Nhân dân ta thường sử dụng hai tác phẩm này để diễn
xướng dân gian như: lẩy Kiều, tập Kiều, hát, ngâm…Vì cả hai tác phẩm đều
viết bằng thể thơ lục bát, thể thơ đặc trưng của dân tộc Việt Nam nên rất
được nhân dân ưa thích, dễ đi vào lòng người. Nếu như Truyện Kiều là tác
phẩm truyện thơ Nôm đặc sắc với thể thơ lục bát mang tính chất bác học
được nhân dân miền Bắc nói riêng và nhân dân cả nước nói chung yêu thích
thì Lục Vân Tiên lại mang thể thơ lục bát đặc trưng của nhân dân miền Nam:
giản dị, tróng sáng, dễ hiểu, được nhân dân miền Nam cực kỳ yêu thích. Do
đó, từ thể thơ lục bát vốn có sẵn nhịp điệu chuyển thể thành bài bản cải lương
sẽ dễ dàng hơn.
Thứ hai, Truyện Kiều và Lục Vân Tiên là hai tác phẩm rất tiêu biểu mang
đậm chất dân tộc Việt Nam. Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh đã từng phát biểu:
“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn – tiếng ta còn, nước ta còn” (Nguyên Trang,
Truyện Kiều còn tiếng ta còn, Báo Người Hà Nội, số 15 ra ngày 11 tháng 04
năm 2008). Còn ngay đoạn mở đầu Lục Vân Tiên, tác giả đã cho thấy việc
“mượn xưa nói nay”, nêu cao tấm gương “trung hiếu tiết nghĩa”:
Trước đèn xem truyện Tây Minh,
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le.
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Do đó, việc sử dụng hai tác phẩm này trong bối cảnh đất nước đang bị thực
dân Pháp khai thác bóc lột cũng là cách khơi gợi lòng yêu nước từ quần
chúng nhân dân, giúp họ ghi nhớ những tác phẩm tiêu biểu của dân tộc Việt
Nam. Không những thế, ẩn chứa đằng sau những câu hát tưởng chừng như
đơn giản mộc mạc chính là lời kêu gọi lòng yêu nước. Nàng Kiều, phận nữ
nhi “liễu yếu đào tơ” nhưng đã không cam tâm trước cảnh cha và em trai bị
bắt và đánh đập oan ức thì tại sao chúng ta lại thờ ơ trước cảnh mất nước?:
Thúy Kiều: Nghĩ tới thôi, ngẩn ngơ cho phận
Sống thừa chi đây,
Chi đây mà chẳng thảo thân
Đâu há lại làm thinh, dễ thẹn kiếp sinh.
(Kiều du thanh minh, Phạm
Đình Khương)
Truyện Kiều không chỉ được sử dụng trong thời kỳ cải lương mới ra đời mà
sau đó, nhiều soạn giả khác cũng sáng tác những vở cải lương dựa trên nguồn
cảm hứng Truyện Kiều. Trong những vở cải lương trước 1945 mà chúng tôi
sưu tầm được có hai vở diễn theo Truyện Kiều của Nguyễn Du. Cả hai vở
này đều do nhà xuất bản Phạm Đình Khương ấn hành. Đó là vở Hoạn Thơ
tróc Kiều của Trương Quang Tiền và Kiều du thanh minh của Phạm Đình
Khương. Mặc dù cả hai tác giả đều ghi là diễn theo truyện Kim Vân Kiều
nhưng ở đây chúng tôi xin khẳng định, đó là dựa vào truyện Nôm Nguyễn Du
chứ không phải Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân, tức là không chỉ
dựa vào mặt cốt truyện. Cả hai vở cải lương này đều chỉ lấy một đoạn trong
Truyện Kiều chứ không diễn lại cả truyện. Vở Hoạn Thơ tróc Kiều diễn từ
đoạn Sở Khanh gạt Kiều trốn đi cho đến đoạn sư Giác Duyên gửi Kiều đến
nhà họ Bạc. Còn vở Kiều du thanh minh diễn từ đoạn Kiều du thanh minh
cho đến lúc Kiều theo Mã Giám Sinh vào lầu xanh của mụ Tú Bà.
Sở dĩ hai vở cải lương chọn hai đoạn như trên đã nêu vì đây là hai đoạn mấu
chốt trong Truyện Kiều, làm nên cuộc đời 15 năm lưu lạc của Thúy Kiều như
Nguyễn Du đã viết:
Hết nạn nọ đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.
Dù tên gọi của hai vở cải lương này khác nhau, dù hai soạn giả lựa chọn diễn
lại hai đoạn khác nhau trong Truyện Kiều nhưng cấu trúc của kịch bản về cơ
bản giống nhau. Vở Hoạn Thơ tróc Kiều bắt đầu bằng cuộc gặp gỡ với Sở
Khanh và dẫn đến tai họa phải ở lầu xanh tiếp khách. Từ lầu xanh, nàng gặp
và được Thúc Sinh chuộc ra, làm lẽ Thúc Sinh. Hoạn Thơ biết chuyện, lập
mưu chia rẽ Kiều và Thúc Sinh. Kiều trốn khỏi nhà Thúc Sinh đến gặp Giác
Duyên. Tuy nhiên, vì nàng trộm chuông khánh nhà Thúc Sinh nên Giác
Duyên đã gửi nàng cho nhà họ Bạc. Vở Kiều du thanh minh thì bắt đầu bằng
cuộc gặp gỡ giữa Kiều và Kim Trọng nhưng cuối cùng hai người không đến
được với nhau. Kiều bán mình chuộc cha và trao duyên cho Thúy Vân. Vở
cải lương kết thúc ở đoạn Vương Ông tiễn Thúy Kiều về làm vợ Mã Giám
Sinh. Có thể khái quát lại sự giống nhau về mặt kết cấu của hai kịch bản này
như sau:
Kết cấu Kiều du thanh minh Hoạn Thơ tróc Kiều
Gặp gỡ Kim Trọng Sở Khanh
Tai họa Bán mình chuộc cha Ở lầu xanh tiếp khách
Kết hôn Mã Giám Sinh Thúc Sinh
Có thể thấy, kịch bản của hai vở cải lương này đều có một biến cố lớn trong
cuộc đời Thúy Kiều. Vở Hoạn Thơ tróc Kiều là biến cố Kiều và Thúc Sinh
rơi vào mưu Hoạn Thơ. Hai người gặp nhau nhưng không dám nhận nhau:
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm. Vì tính chất của cải lương là
tập trung khai thác các bi kịch nên đây là đoạn rất dễ khai thác và dễ lấy nước
mắt người xem. Đoạn Kiều đánh đàn cho Thúc Sinh và Hoạn Thư rất cảm
động:
Thúy Kiều ngâm: Chừ đem ca tiếu giải phiền
Cười nên tiếng khóc, hát nên giọng sầu.
Ca tứ đại oán:
Thân nghĩ thân luống thẹn với lòng
Nghĩ thân rồi bắt não nùng
Thân sao mà lắm lần gian truân
Trời xanh ghét khách má hồng
Nợ phong trần trả bao giờ cho xong
Đoạn ruột tầm héo hon
Lụy tương tư doanh tròng.
Miếng tình chung
Nuốt vừa vô cớ sao nghẹn mãi
Đứt nối mối tơ lòng
Giọt thầm bững khôn ngăn.
Có thấu tình chàng chăng hỡi lương nhân.
Rõ ràng, dù không sử dụng trực tiếp những câu thơ trong Truyện Kiều nhưng
lời ca có những câu thơ được gợi hứng từ Truyện Kiều rất rõ. Chẳng hạn câu
hát: Trời xanh ghét khách má hồng tương tự với một câu thơ ở đoạn đầu
Truyện Kiều là: Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Vở cải lương Kiều du thanh minh cũng có cách khai thác kịch bản tương tự.
Kịch bản này chọn khai thác bi kịch khi Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha
và trao duyên lại cho Thúy Vân. Đoạn này nằm ở màn thứ sáu.
Thúy Kiều (khóc) nói: Em ôi, mở miệng ra thì gở, để dạ vậy sao đành, cậy
cùng em chút có thương tình, ngồi cho chị lạy rồi sẽ tỏ.
CA TỨ ĐẠI OÁN
Xin cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi,
Chị sẻ bày mấy lời ruột gan
Rủi thay đứt gánh giữa đàng
Nên đã đành dứt tình chàng Kim
Tơ thừa mặc em
Chấp keo loan cho chàng
Vì đâu xui
Cuộc biển dâu đổi dời thôi rất lẹ
Nặng hiếu nhẹ tình
Nên phụ chử sơn minh
Nát ruột mà cắn răng đó em
Ngày xuân em hỡi còn xuân
Có thương tình ruột rà máu mủ
Khá thay lời nước non sanh tử
Chiếc xoa cùng tờ mây nắm giữ
Của tin khi lúc trước, ước thệ nhau cùng.
…Còn ghi lòng
Em nên vợ nên chồng
Chị như có xuống suối vàng
Ắt xót người mạng bạc chớ quên.
Có thể thấy, đoạn ca Tứ đại oán này hoàn toàn giống với đoạn trao duyên
trong Truyện Kiều:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?.
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Dyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Như vậy, sự khác nhau ở đây chính là mặc dù lời ca cải lương dựa vào lời thơ
Truyện Kiều nhưng đã biến đổi đi cho phù hợp với giai điệu của một bài Tứ
đại oán.
Nếu so sánh về việc vay mượn lời thơ từ Truyện Kiều của Nguyễn Du thì có
thể dễ dàng nhận ra, vở cải lương Hoạn Thơ tróc Kiều có sự phóng tác nhiều
hơn vở Kiều du thanh minh. Trương Quang Tiền đã sử dụng một số ý thơ
trong Truyện Kiều để viết lời riêng cho các nhân vật trong khi đó Phạm Đình
Khương chủ yếu chỉnh sửa lời thơ của Truyện Kiều cho khớp với lời nhạc
của nhân vật. Cả hai vở cải lương này đều ra đời vào năm 1927 nên theo
chúng tôi, sự khác nhau ở đây là do quan điểm sáng tác của mỗi tác giả.
Trương Quang Tiền là người sáng tác và chuyển thể rất nhiều vở cải lương
như: Mạnh Lệ Quân thoát hài, Phụng Nghi Đình, Triệu Khuông Dẫn đưa
Triệu Kinh Vương, Mạnh Lệ Quân chấm trường thi gặp chồng, Tây Thi gặp
Phù Ta, Mạnh Lệ Quân chẩn mạch Đông Bình Vương, Hồng y hiệp nữ,
Duyên chị tình em, Hồ Bạch Huê vĩnh biệt Tấn vương, Tâm tình xuất thế Tấn
vương du xuân, Mẫu đơn tiên xuất thế, Điên vì tình, Giọt máu chung tình,
Phụng cầu hoàng duyên, Tứ đổ tường, Mạnh Lệ Quân giả trai, Chiêu Quân
lầm kế gian thần, Chiêu Quân giáp mặt Hán Hoàng, Hỏa thiêu Hồng Liên
tự…Do đó ông đã có thể định hình phong cách viết kịch bản cho mình và có
khả năng phóng tác vững chắc. Ngược lại, số vở cải lương mà chúng tôi sưu
tầm được của Phạm Đình Khương chỉ có duy nhất một vở Kiều du thanh
minh. Dĩ nhiên không thể khẳng định Phạm Đình Khương chỉ sáng tác duy
nhất một vở cải lương nhưng có thể khẳng định số lượng kịch bản do Phạm
Đình Khương viết ít hơn Trương Quang Tiền. Cho nên vở Kiều du thanh
minh cũng có thể xem là một sự thể nghiệm của nhà xuất bản Phạm Đình
Khương trong việc chuyển thể kịch bản cải lương từ truyện Nôm.
Không chỉ có Truyện Kiều và Lục Vân Tiên được chuyển thể thành kịch bản
cải lương mà những truyện Nôm khuyết danh như: Nhị độ mai, Quan Âm Thị
Kính hay Lâm tuyền kỳ ngộ cũng được các soạn giả để ý đến.
Nhị độ mai được soạn giả Mộng Trần chuyển thể nhưng vẫn giữ nguyên tên
gọi. Tuy nhiên, tên gọi này dùng để chỉ cho đoạn trích Hoa mai nở hai lần
trong Hồi thứ tư của Nhị độ mai chứ không phải là toàn bộ câu chuyện. Cũng
giống như hai tác giả kể trên, Mộng Trần chỉ chọn một đoạn trong Nhị độ
mai để soạn thành cải lương, đó là đoạn: Lương Ngọc giả danh Vương Hĩ
Đồng vào ở nhà Trần Đông Sơ tế mai cho đến lúc Trần Đông Sơ nhận ra
được.
Ngoài ra, Mộng Trần còn chuyển thể thêm hai đoạn thơ khác để tạo một
chuỗi liên hoàn ba vở cải lương dựa vào truyện thơ Nôm Nhị độ mai, mỗi vở
ông chọn lấy một hồi đặc sắc nhất. Đó là những vở: Hạnh Nguyên cống hồ và
Mai Trần tái ngộ. Trong khi chuyển thể, Mộng Trần bám sát cốt truyện chứ
không bám sát vào ngôn từ. Mặc dù Nhị độ mai có những câu thơ lục bát rất
hay nhưng Mộng Trần không sao chép hoàn toàn những câu lục bát đó. Ông
chỉ lấy ý và để cho nhân vật nói bằng lời của mình sao cho gần lời ăn tiếng
nói hàng ngày nhất.
Chẳng hạn, đoạn Mai Sinh thú thực đã giả dạng Vương Hĩ Đồng trong Nhị
độ mai được miêu tả bằng một đoạn lục bát ngắn thì trong kịch bản cải lương,
điểm truyện này được đẩy lên cao và nâng tầm kịch tính cho kịch bản.
Trong truyện thơ Nôm Nhị độ mai, tác giả viết:
Trần-công rằng: "Sự lạ lùng,
Hỉ Đồng này thực Mai-công-tử rồi !"
Đòi thúy hoàn, mới dạy lời,
Dặn dò hãy thử ướm chơi thăm tình.
Hoàn rằng: "Hơi hỡi Mai-sinh,
Toan gieo cái vạ tày đình cho ai ?
Bây giờ Lư tướng nghe hơi,
Sai về trách cứ một hai lấy người.
Kẻo còn quanh quẩn những lời,
"Còn nay Vương thị, còn mai Hĩ Đồng ?"
Mai sinh nghe tỏ sự lòng,
Uốn lời thú thực phô sòng van lơn :
"Mai nay muôn đội ơn hoàn,
Mưu gì cứu được khỏi cơn đường cùng."
Túy hoàn mới ngỏ thực lòng
"Vâng lời tôi thử ướm lời đấy thôi.
Mới rồi nhân thấy vị bài,
Rõ tình ông dạy cho lời không sao !"
Mai sinh ren rén bước vào,
Nửa mừng nửa sợ biết bao nhiêu tình.
Ông rằng: "Sau những dấu quanh,
Nghĩ là ai, chẳng là mình đấy ư ?
Thế mà bác cứ thờ ơ,
Thứ cho lỗi ấy từ xưa đến rày."
Lạy rồi, sinh mới giãi bày
Từ ngày về quán từ ngày nghe oan.
Bao nhiêu tình tự nguồn cơn,
Sơn đông chia bước, Hầu Loan trở lòng,
Ơn Đồ Thân, nghĩa Hĩ Đồng,
Dây oan khi cởi, cửa không khi nhờ.
Bước đường xa, cái sống thừa,
Tấc riêng riêng những nào ngờ có nay !
Trong khi đó, vở cải lương Nhị độ mai viết rất rõ đoạn đối thoại giữa Túy
Hườn và Mai Lương Ngọc cũng như đoạn đối thoại giữa Mai Sinh và Trần
Công về việc giả mạo của chàng. Trong những đoạn đối thoại đó, Mai Sinh
luôn cảm thấy áy náy về tội lỗi của mình. Mai Lương Ngọc nói:
Vải che mắt thánh bấy lâu
Tội đành muôn thác, mặc dầu giết tha.
Và ở đoạn khác, chàng nhắc lại:
Cái thân lận đận lao đao
Giả Hĩ Đồng quảng bao chút phận
Miễng sống thừa dòng mai chẳng tận
Nay lộ tình lòng càng hối hận
Cam đành muôn tội dẫu giết tha dám phiền.
Như vậy, theo chúng tôi, sự khác nhau ở đây có nguyên nhân từ quan niệm
của chính tác giả. Cải lương ra đời trong thời kỳ này bên cạnh kêu gọi lòng