Sau 20 năm đổi mới, chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng kể. hiện nay nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là có tốc độ phát triển cao, ổn định, có môi trường có tiềm năng đầu tư an toàn cao trong khu vực và thế giới. Đóng góp vào sự thành công đó phải kể đến ngành Ngân hàng. Với sự lãnh đạo của ngân hàng Trung ương cũng như sự phát triển và hoạt động có hiệu quả của các ngân hàng thương mại đã huy động được một lượng vốn lớn, đấp ứng nhu cầu phát triển của đất nước cũng như cung cấp dịc vụ, tiện ích về Ngân hàng- Tài chính cho khách hàng góp phần đưa đất nước phát triển theo hướng hiện đại, theo kịp với trình độ thế giới.
Tuy nhiên do sự chuyển đổi cơ chế còn chậm, trình độ còn kém nên ngành Ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn trong chính sách cũng như quản lý và hoạt động, đặc biệt là vấn đề nợ xấu, và từ khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ Mỹ lan rộng toàn thế giới các nền kinh tế phải đối đầu với rất nhiều khó khăn bắt đầu từ hệ thống ngân hàng, trong đó đáng kể nhất pahir nói tới vấn đề nợ xấu. Nợ xấu gây ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành, làm cho tình hình cùa ngành Ngân hàng trở nên yếu kém, khả năng cạnh tranh giảm sút. Nhất là hiện nay khi chúng ta trở thành thành viên chính thức của WTO thì vấn đề này đã gây ra nhiều khó khăn cho việc cạnh tranh với nước ngoài, tăng rủi ro trong hoạt động ngân hàng, mất lòng tin khách hàng và tất nhiên ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước. Và khi đề cập đến tình trạng nợ xấu của nước ta các chuyên gia kinh tế gọi đó là “cục máu đông” của nền kinh tế, “ cục máu đông” này khiến dòng tiền lưu thông bị tắc lại, nền kinh tế bị đình trệ, doanh nghiệp không tiếp cận được với tín dụng của ngân hàng. Do đó làm thế nào để hạn chế,quản lý và xử lý nwoj xấu là một vấn đề đáng được quan tâm. Nghiên cứu được nợ xấu thì mới có thể tìm ra được nguyên nhân gây ra nợ xấu. từ đó đưa ra biện pháp, chính sách phù hợp trong việc điều tiết hoạt động tín dụng nhằm đảm ảo nợ xấu được ở mức quy định của ngành. Đảm bảo một tiền đề vững chắc cho sự phát triển có định hướng,có mục tiêu và an toàn, có hiệu quả về lâu dài.
20 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2303 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những nguyên nhân hình thành nợ xấu một số NHTM ở TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2002 – 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN
ĐỀ TÀI:
“ NHỮNG NGUYÊN NHÂN HÌNH THÀNH NỢ XẤU MỘT SỐ NHTM Ở TP. HỒ CHÍ MINH
GIAI ĐOẠN 2002 – 2011.”
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Danh
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN:
Nguyễn Thị Cẩm Anh
Lê Song Tuyết Nga
Thị Nguyệt
Nguyễn Thị Mai
Phạm Thị Phương Lan
Kiều Vũ Kim Ngân
Trần Thị Thùy DươngTP.HCM, ngày 24/09/2012
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
Đặt vấn đề
Sau 20 năm đổi mới, chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng kể. hiện nay nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là có tốc độ phát triển cao, ổn định, có môi trường có tiềm năng đầu tư an toàn cao trong khu vực và thế giới. Đóng góp vào sự thành công đó phải kể đến ngành Ngân hàng. Với sự lãnh đạo của ngân hàng Trung ương cũng như sự phát triển và hoạt động có hiệu quả của các ngân hàng thương mại đã huy động được một lượng vốn lớn, đấp ứng nhu cầu phát triển của đất nước cũng như cung cấp dịc vụ, tiện ích về Ngân hàng- Tài chính cho khách hàng góp phần đưa đất nước phát triển theo hướng hiện đại, theo kịp với trình độ thế giới.
Tuy nhiên do sự chuyển đổi cơ chế còn chậm, trình độ còn kém nên ngành Ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn trong chính sách cũng như quản lý và hoạt động, đặc biệt là vấn đề nợ xấu, và từ khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ Mỹ lan rộng toàn thế giới các nền kinh tế phải đối đầu với rất nhiều khó khăn bắt đầu từ hệ thống ngân hàng, trong đó đáng kể nhất pahir nói tới vấn đề nợ xấu. Nợ xấu gây ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành, làm cho tình hình cùa ngành Ngân hàng trở nên yếu kém, khả năng cạnh tranh giảm sút. Nhất là hiện nay khi chúng ta trở thành thành viên chính thức của WTO thì vấn đề này đã gây ra nhiều khó khăn cho việc cạnh tranh với nước ngoài, tăng rủi ro trong hoạt động ngân hàng, mất lòng tin khách hàng và tất nhiên ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước. Và khi đề cập đến tình trạng nợ xấu của nước ta các chuyên gia kinh tế gọi đó là “cục máu đông” của nền kinh tế, “ cục máu đông” này khiến dòng tiền lưu thông bị tắc lại, nền kinh tế bị đình trệ, doanh nghiệp không tiếp cận được với tín dụng của ngân hàng. Do đó làm thế nào để hạn chế,quản lý và xử lý nwoj xấu là một vấn đề đáng được quan tâm. Nghiên cứu được nợ xấu thì mới có thể tìm ra được nguyên nhân gây ra nợ xấu. từ đó đưa ra biện pháp, chính sách phù hợp trong việc điều tiết hoạt động tín dụng nhằm đảm ảo nợ xấu được ở mức quy định của ngành. Đảm bảo một tiền đề vững chắc cho sự phát triển có định hướng,có mục tiêu và an toàn, có hiệu quả về lâu dài.
Trong khi đó theo chuyên gia kinh tế TS Vũ Đình Ánh thì vấn đè nợ xấu của Việt Nam khác với các nước khác,nợ xấu Việt Nam gắn với nợ khu vực doanh nghiệp nhà nước mặc dù tới thời điểm hiện nay dư nợ của doanh nghiệp nhà nước trong tổng dư nợ vẫn chưa được công bố. Thêm vào đó nợ xấu gắn với đầu tư công. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhận dự án với vốn đầu tư ngân sách nhà nước và vay ngân hàng để làm dự án,sau đó ngân sách không có vốn rót cho dự án nên dẫn đến tình trạng nợ xấu doanh nghiệp. Ngoài ra bản chất nợ xấu Việt Nam không phải do ngân hàng rất nhiều các khoản này do vay theo chỉ định.
Từ đó vấn đề được đặt ra là “ nợ xấu là một vấn đề bức bách của nền kinh tế Việt Nam, và vấn đề này cần được giải quyết càng sớm càng tốt”
Với những lý do trên nên nhóm em đưa ra ý kiến về đề tài “ nợ xấu và nguyên nhân gây ra nợ xấu của một số ngân hàng thương mại tại TP HCM”.
Mục tiêu nghiên cứu
Nợ xấu ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung và tốc độ nợ xấu càng ngày càng nhanh hơn trong thời gian gần đây do vấn đề sở hữu chéo của các tổ chức phức tạp:tình trạng cho vay tập trung vào các nhóm khách hàng có liên quan: tăng trưởng kinh tế và tổng cầu chậm lại: đầu tư vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro như bất động sản, chứng khoán: tính minh bạch của các tổ chức tính dụng còn nhiều hạn chế và nhiều hành vi che giấu nợ xấu: năng lực của các cơ quan kiểm tra còn hạn chế cho nên:
Mục tiêu tổng quát:
Nghiên cứu vấn đề nợ xấu và các nguyên nhân gây ra nợ xấu để tìm ra các nhân tố ảnh hưởng tới nợ xấu trên cơ sở lý luận về nợ xấu của các NHTM
Mục tiêu cụ thể:
Từ cách xử lý vấn đề nợ xấu của các NHTM của một số nước để vận dụng vào thực tế Việt Nam, tập trung chủ yếu vào một số NHTM tại TP HCM.
Đề xuất một số biện pháp hạn chế và xử lý nợ xấu nhằm giảm thiểu các khoản cho vay khó thu hồi và không phát sinh các khoản nợ mới.
Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi mục tiêu
Những nhân tố nào hình thành nợ xấu của các NHTM ?
Câu hỏi nghiên cứu
Liệu có mối quan hệ nào giữa lãi suất cho vay và nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu?
GDP thực có ảnh hương hay không đến vấn đề nợ xấu?
Tổng nợ có thực sự tỷ lệ với nợ xấu?
Tổng tài sản có ảnh hưởng như thế nào đến quy mô của nợ xấu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là nợ xấu và những nguyên nhân gây ra nợ xấu của một số NHTM tại TP HCM
Phạm vi nghiên cứu: về nội dung: tìm hiểu về nợ xấu và các nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ xấu.
Về thời gian: Do tính chất vi mô nên bài nghiên cứu chỉ khảo sát 5 ngân hàng thương mại tiêu biểu tại TP HCM : Sacombank, ACB, Vietinbank, Techcombank, Vietcombank.
Về không gian: từ năm 2002 đến năm 2011
Phương pháp nghiên cứu
Dùng phương pháp nghiên cứu định lượng.
Tìm kiếm các yếu tố ảnh hưởng hoặc là nguyên nhân gây ra nợ xấu
Đưa ra giả thuyết nghiên cứu
Mối quan hệ giữa lãi suất cho vay với nợ xấu của các ngân hàng
Sự ảnh hưởng của GDP thực đến nợ xấu
Tỷ lệ giữa tổng nợ và nơ xấu
Tổng tài sản có giải quyết được vấn đề nợ xấu
Chọn mẫu, phân tích dữu liệu và đưa ra mô hình hồi quy.
Thu thập, thống kê và mô tả dữ liệu một cách nhất quán, phân tích các dữu liệu thu thập từ đó đưa ra mô hình và đi đến kết luận
Sử dụng nguồn dữu liệu thứ cấp
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NỢ XẤU
Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Trong ngân hàng thương mại, tiền huy động được của người gửi gọi là tài sản "nợ", tiền cho công ty và các cá nhân vay cũng như tiền gửi ở các ngân hàng khác và số trái phiếu ngân hàng sở hữu gọi là tài sản "có" của ngân hàng.
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, ngân hàng thương mại thực sự đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu.
Rủi ro tín dụng
Có nhiều rủi ro mà các ngân hàng đang phải đối mặt như rủi ro lạm phát, thị trường, lãi suất, hối đoái, tái đầu tư, tác nghiệp... Trong phạm vi bài nghiên cứu, chúng tôi sẽ chỉ đề cập đến rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng được xem như là khả năng khách hàng không trả được nợ vay và lãi sử dụng tiền vay mà nguyên nhân là từ những tình huống không “phát hiện” được khi cho vay và phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng.
Lợi nhuận mà ngân hàng công bố hiện nay có phần phản ánh rủi ro tín dụng thông qua các khoản trích lập dự phòng. Tuy nhiên, ngay chính tiêu chuẩn và điều khoản trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo quy định hiện hành vẫn còn nhiều khiếm khuyết, không phản ánh được thực chất các nguy cơ rủi ro tín dụng mà ngân hàng đang gặp phải.
Chẳng hạn như các khoản cho vay khi được bảo đảm bằng 100% giá trị tài sản cũng không đồng nghĩa với việc là sẽ không có rủi ro tín dụng. Trong điều kiện thị trường có nhiều biến động thì việc giá trị tài sản giảm sâu hoặc kém thanh khoản là hoàn toàn có thể xảy ra. Đối với các ngân hàng Việt Nam, khi nhóm tài sản đảm bảo hiện nay chủ yếu là bất động sản thì việc thị trường bất động sản xấu đi vừa không chỉ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng là các nhà đầu tư bất động sản mà còn là các khoản nợ được thế chấp bởi bất động sản (bất động sản dân cư).
Bên cạnh đó, rủi ro tín dụng ở các ngân hàng Việt Nam còn do sự gia tăng của hiện tượng bất cân xứng thông tin trong bối cảnh bất ổn vĩ mô mà biểu hiện là hành vi lựa chọn ngược (adverse selection). Trái với quan điểm thông thường cho rằng khi lãi suất cho vay cao sẽ giúp loại bỏ các dự án tồi có suất sinh lợi kém, đồng thời chọn lọc những dự án tốt với mức sinh lợi cao. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam, khi lãi suất cho vay quá cao thì chính những con nợ rủi ro mới là đối tượng sẵn sàng tiếp cận vốn vay. Nghĩa là, do ngân hàng không có thông tin đáng tin cậy về người đi vay và do đó không thể phân biệt được con nợ tốt với con nợ xấu nên khi lãi suất quá cao đã đặt ngân hàng vào thế lựa chọn bất lợi chứ không hoàn toàn là người đi vay mới bị bất lợi.
Nợ là gì?
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nợ bao gồm:
Các khoản cho vay, ứng trước, thấu chi và cho thuê tài chính;
Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác;
Các khoản bao thanh toán;
Các hình thức tín dụng khác.
Các khoản nợ của ngân hàng được phân loại thành 5 nhóm:
Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn;
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại;
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại;
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại;
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại;
Đồng thời tại Điều 7 của Quyết định nói trên cũng quy định các ngân hàng thương mại căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Từ quy định phân loại nợ trên của nhà nước, định nghĩa về nợ xấu được đưa ra dưới đây.
Nợ xấu
Định nghĩa nợ xấu của Việt Nam tại Quyết định 493/2005/QĐ-Ngân hàng Nhà nước ngày 22/4/2005 của Ngân hàng Nhà nước như sau: “Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (có khả năng mất vốn).” Ngoài ra, nợ xấu còn là các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn, có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi, có khả năng tổn thất cao hay không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê – Liên hợp quốc, “về cơ bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Như vậy, nợ xấu về cơ bản được xác định dựa trên 2 yếu tố: nợ quá hạn trên 90 ngày và khả năng trả nợ nghi ngờ. Căn cứ vào 2 yếu tố này, các ngân hàng thương mại sẽ tiến hành hạch toán các khoản nợ của mình.
Phương thức đánh giá nợ xấu
Phương thức đánh giá nợ xấu chủ yếu dựa vào 2 yếu tố của một khoản nợ xấu. Hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ mới hạch toán nợ xấu theo thời gian quá hạn trên 90 ngày (yếu tố 1); nhưng lại bỏ qua việc xác định khả năng trả nợ của khách hàng (yếu tố 2).
Hiện tại, hai phương pháp thường dùng để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng là phương pháp phân tích dòng tiền tương lai hoặc xếp hạng khoản vay khách hàng. Tuy vậy, việc áp dụng hai phương pháp này còn gặp rất nhiều khó khăn, không chỉ ở Việt Nam mà cả ở các nước phát triển.
Tình hình nợ xấu Việt Nam
Nợ xấu hiện nay của các tổ chức tín dụng (TCTD) được tích lũy từ trước đây do môi trường kinh doanh xấu đi kể từ năm 2008, khách hàng vay gặp nhiều khó khăn về tài chính và hoạt động, vì vậy, nợ xấu của hệ thống các ngân hàng có chiều hướng gia tăng nhanh trong thời gian gần đây. Trong bối cảnh dư nợ tín dụng không tăng từ đầu năm 2012 trở lại đây cho thấy nợ xấu phát sinh mới chủ yếu là các khoản tín dụng đã được cấp trước đây, đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng nhanh. Đến ngày 31/5/2012, nợ xấu theo các TCTD báo cáo là hơn 117 ngàn tỷ đồng, chiếm 4,47% so với tổng dư nợ tín dụng (ThS. Nguyễn Hữu Nghĩa, 2012).
So với tỷ lệ nợ xấu hiện nay ở mức 4,47% theo báo cáo của TCTD hay 8,6% theo kết quả giám sát vẫn thấp hơn so với tỷ lệ nợ xấu của một số nước trong khu vực tại thời điểm Chính phủ phải đứng ra xử lý nợ xấu, cụ thể: Hàn Quốc 17% (tháng 3/1998), Thái Lan 47,7% (tháng 5/1999), Malaysia 11,4% (tháng 9/1998), Indonesia trên 50% (năm 1999). (ThS.Nguyễn Hữu Nghĩa, 2012)
Sơ lược một vài ngân hàng tại Tp.HCM
Ngân hàng ACB:
ACB có tên đầy đủ là Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu. Ngân hàng được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 24/04/1993, GIấy phép số 553/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP. Hồ Chí Minh cấp ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993, ACB chính thức đi vào hoạt động. Vốn điều lệ của ACB hiện nay là 9.376.965.060.000 đồng.
Với tầm nhìn xác định là trở thành ngân hàng TMCP bán lẻ hàng đầu Việt Nam, hiện nay ACB là ngân hàng bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam với hơn 200 sản phẩm và dịch vụ được đánh giá là một trong những ngân hàng cung cấp dịch vụ phong phú dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại. (www.acb.com.vn)
Theo số liệu báo cáo tài chính quý 2/2012, nợ xấu của ACB tăng từ 0,86% đầu năm lên 1,53% cuối quý 2, trong đó nợ có khả năng mất vốn tăng gấp đôi từ 300 tỷ đầu năm lên 600 tỷ cuối quý 2.
Nguồn: số liệu báo cáo tài chính quý 2/2012 của ACB
Ngân hàng Sacombank:
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (sacombank) Sacombank là một trong những ngân hàng TMCP đầu tiên được thành lập tại TP.HCM vào năm 1991 từ việc hợp nhất Ngân hàng Phát triển Kinh tế Gò Vấp cùng với 03 hợp tác xã tín dụng là Tân Bình, Thành Công và Lữ Gia. Vốn điều lệ của sacombank hiện nay là 9.179.230.130.000 đồng.
Sau nhiều năm hoạt động, Sacombank vươn lên dẫn đầu khối ngân hàng TMCP tại Việt Nam về tốc độ tăng trưởng với tỉ lệ hơn 50%/năm với mạng lưới hoạt động trên toàn quốc. Chiến lược của Sacombank là phát triển thành một ngân hàng bán lẻ, hiện đại, đa năng hàng đầu Việt Nam. (www.sacombank.com.vn)
Theo báo cáo tài chính quý 2/2012 của ngân hàng, ngày 30/06/2012, nợ quá hạn chiếm 1,77% tổng dư nợ - chỉ tiêu này tăng hơn 104% so với đầu năm, nợ có khả năng mất vốn 0,39% tổng dư nợ.
Nguồn: số liệu báo cáo tài chính quý 2/2012 của Sacombank
Vietinbank:
Ngân Hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) được thành lập từ năm 1988 sau khi tách ra từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đây là Ngân hàng đầu tiên của Việt Nam được cấp chứng chỉ ISO 9001:2000. VietinBank là một trong 4 ngân hàng thương mại lớn nhất thị trường hiện nay. Với thương hiệu tốt và mối quan hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng truyền thống, cùng với nền tảng tài chính vững mạnh, VietinBank luôn là một trong những Ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam. Vốn điều lệ hiện nay của ngân hàng là 20.229.721.610.000 đồng. (www.vietinbank.vn)
Theo như thông báo kết quả kinh doanh quý II và 6 tháng đầu năm 2012 của Vietinbank, dư nợ có khả năng mất vốn cuối quý II của vietinbank lên tới 2.254 tỷ đồng, nợ nghi ngờ 1.912,5 tỷ đồng, tăng mạnh so với số dư đầu năm. Trong khi đó, hạng mục dư nợ đủ tiêu chuẩn và nợ cần chú ý giảm.
Nguồn: báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm 2012 của Sacombank
Vietcombank:
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) được thành lập trên cơ sở cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thông qua việc bán đấu giá cổ phiếu lần đầu ra công chúng ngày 26/12/2007 tại Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Vietcombank đã xây dựng cho mình một chiến lược phát triển bền vững với mục tiêu trở thành một tập đoàn tài chính hàng đầu Việt Nam và trở thành ngân hàng tầm cỡ quốc tế ở khu vực. Sau đợt phát hành tăng vốn điều lệ năm 2012, vốn điều lệ mới của VietinBank là 26.217.545.370.000 đồng, đưa VietinBank chính thức trở thành Ngân hàng TMCP có vốn điều lệ lớn nhất Việt Nam. (www.vietcombank.com.vn)
Theo báo cáo tài chính hợp nhất 6 tháng đầu năm 2012 của Vietcombank, nợ xấu của ngân hàng tăng từ 2,03% đầu năm lên 3,5% vào cuối quý 2/2012 trong đó nợ có khả năng mất vốn lên tới 3.946 tỷ đồng.
Techcombank:
Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (techcombank) được thành lập ngày 27/09/1993 với số vốn ban đầu là 20 tỷ đồng, trải qua 18 năm hoạt động, đến nay Techcombank đã trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam với tổng tài sản đạt trên 180.874 tỷ đồng (tính đến hết năm 2011). Techcombank còn là ngân hàng đầu tiên và duy nhất được Financial Insights tặng danh hiệu Ngân hàng dẫn đầu về giải pháp và ứng dụng công nghệ. Hiện nay, số vốn điều lệ của ngân hàng là 8.788.078.710.000 đồng. (www.techcombank.com.vn)
Theo báo cáo tài chính bán niên hợp nhất năm 2012, nợ xấu của ngân hàng tăng từ 2,82% đầu năm lên 2,94% cuối quý 2/2012. Trong đó, nợ có khả năng mất vốn là 562.644 triệu đồng.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Những nhân tố hình thành nợ xấu:
Sự suy giảm về chất lượng cho vay của các ngân hàng là một trong những nguyên nhân chính của sự sụp đổ hệ thống tài chính. Kinh nghiệm trước đó cho thấy rằng một sự tăng lên nhanh chóng các khoản nợ xấu đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc khủng hoảng ngân hàng (Demirgüç-Kunt Detragiache năm 1998, và González-Hermosillo, 1999). Ở các nước đang phát triển và kém phát triển, những lý do gây nên nợ xấu là một khía cạnh đa chiều. Các nhà nghiên cứu khác nhau đã kết luận những nguyên nhân khác nhau về vấn đề này. Trong đó đươc chia ra làm hai nhân tố chính: Yếu tố kinh tế vĩ mô, và yếu tố liên quan đến ngân hàng.
Các yếu tố kinh tế vĩ mô:
Điều kiện kinh tế: nghiên cứu của Sinkey và Greenwalt (1991) tại các ngân hàng thương mại lớn Hoa Kỳ từ 1984 đến 1987 sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính đơn giản chỉ ra rằng khu vực điều kiện kinh tế khó khăn giải thích tỷ lệ tổn thất của các ngân hàng thương mại. Sử dụng một mô hình động và một tập dữ liệu bảng điều khiển trong giai đoạn 1985-1997 để điều tra các yếu tố quyết định các khoản nợ xấu của các ngân hàng thương mại và tiết kiệm Tây Ban Nha, Salas và Saurina(2002) cho rằng tăng trưởng GDP thực là một trong các yếu tố giải thích khác biệt trong tỷ lệ nợ xấu.
Thu nhập: Lawrence (1995) đã xem xét một mô hình và giới thiệu một cách rõ ràng xác suất của sự vỡ nợ. Mô hình này cho rằng khách hàng đi vay có thu nhập thấp có tỷ lệ vỡ nợ cao hơn do họ có nguy cơ phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp và không có khả năng chi trả nợ. Ngoài ra, các ngân hàng cũng tính lãi suất cao hơn cho các khách hàng rủi ro.
Tỷ lệ lạm phát: Sự bất ổn định kinh tế vĩ mô biểu hiện bằng tỷ lệ lạm phát cao cũng làm cho việc thẩm định nợ cho vay khó khăn hơn đối với các ngân hàng, hơn nữa, giá tài sản cũng có khả năng rất dễ bay hơi trong điều kiện như vậy. Do đó, giá trị tiền vay thực trong tương lai cũng là rất không chắc chắn (Martin Brownbrigde, 1998)
Tỷ lệ thất nghiệp: Một sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp có thể ảnh hưởng tiêu cực các dòng lưu chuyển tiền tệ của các hộ gia đình và làm tăng gánh nặng nợ nần. Còn đối với các công ty, gia tăng thất nghiệp có thể báo hiệu một sự sụt giảm trong sản xuất như là một hệ quả của sự sụt giảm trong cầu tiêu dùng. Điều này dẫn đến việc giảm doanh thu và sau đó là vỡ nợ. Babouček và Jančar (2005) xác định sự tác động của những cú sốc kinh tế vĩ mô đến chất lượng cho vay của ngành ngân hàng Séc trong giai đoạn 1993-2006 và đã công bố mối tương quan giữa các khoản cho vay k