Nhân cách không phải sinh ra đã có sẵn mà được hình thành và phát triển do nhiều yếu tố. Trong phạm vi bài viết này, người viết xin phân tich vai trò 4 yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển nhân cách đó là di truyền, hoàn cảnh xã hội, nhân tố giáo dục nhân tố hoạt động và nhân tố giao tiếp đồng thời liên hệ thực tiễn
10 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 9354 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhân cách không phải sinh ra đã có sẵn mà được hình thành và phát triển do nhiều yếu tố. Trong phạm vi bài viết này, người viết xin phân tich vai trò 4 yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển nhân cách đó là di truyền, hoàn cảnh xã hội, nhân tố giáo dục nhân tố hoạt động và nhân tố giao tiếp đồng thời liên hệ thực tiễn
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Di truyền
Di truyền là sự tái tạo ở đời sau những thuộc tính sinh học có ở đời trước, là sự truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm những phẩm chất nhất định đã được ghi lại trong hệ thống gen gi truyền.
Các yếu tố bẩm sinh di truyền như đặc điểm hoạt động của hệ thần kinh, cấu tạo của não, cấu tạo và hoạt động của các giác quan… Những yếu tố này sinh ra đã có do bố mẹ truyền lại hoặc tự nảy sinh do biến dị (bẩm sinh).
Các yếu tố bẩm sinh di truyền đóng vai trò tiền đề tự nhiên, là cơ sở vật chất cho sự hình thành và phát triển nhân cách.
Chính vì vậy nhà giáo dục cần quan tâm đúng mức đến vai trò của yếu tố di truyền để phát hiện sớm các tài năng của học sinh, từ đó có kế hoạch bồi dưỡng phát triển tài năng của học sinh. Tuy nhiên không được quá đề cao hoặc quá xem nhẹ vấn đề này vì: Nếu tuyệt đối hoá hoặc quá đề cao ảnh hưởng của yếu tố di truyền sẽ dẫn đến sai lầm về nhận thức luận, dẫn đến những chính sách giáo dục phản khoa học hoặc phủ nhận khả năng cải biến bản chất con người,từ đó hạ thấp vai trò của giáo dục và tự giáo dục. Nếu quá xem nhẹ, coi thường ảnh hưởng của yếu tố sinh học - yếu tố di truyền thì vô hình chung chúng ta đã bỏ qua yếu tố tư chất,yếu tố tiền đề thuận lợi của sự phát triển.
Hoàn cảnh sống
Bao gồm: Yếu tố tự nhiên (đất đai thổ nhưỡng, sông núi khí trời…), yếu tố xã hội (dân tộc, tôn giáo, kinh tế chính trị…)
Nhân cách chỉ có thể được hình thành và phát triển trong môi trường nhất định, đặc biệt là môi trường xã hội, chỉ sống trong xã hội loài người thì con người mới có được những tư chất và thuộc tính người đó cũng chỉ phát triển được trong xã hội con người, nếu không sống trong xã hội loài người thì sẽ không có những thuộc tính người.
Môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều kiện cho các hoạt động giao lưu của học sinh. Nhờ hoạt động đó học sinh dần lĩnh hội được kinh nghiệm xã hội loài người để từng bước hình thành và hoàn thiện nhân cách. Nhân cách phản ánh chủ yếu những đặc điểm lịch sử, điều kiện sinh hoạt, nguồn gốc giai cấp, vị trí xã hội cá nhân, vì vậy khi điều kiện xã hội đã biến đổi cơ bản thì bộ mặt tinh thần của con người cũng biến đổi theo.
Nhân tố giáo dục
Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ sự tác động của gia đình, nhà trường, xã hội (bao gồm cả dạy học và các tác đọng giáo dục khác) đến con người. Theo nghĩa hẹp, giáo dục có thể xem như quá trình tác động đến tư tưởng, đạo đức, hành vi của con người. Trong tâm lí học, giáo dục thường được hiểu như là quá trình tác động có ý thức, có mục đích và có kế hoạch về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập thể trẻ em và học sinh, trong gia đình và cơ quan giáo dục ngoài nhà trường.
Trong sự hình thành và phát triển nhân cách thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Điều đó được thể hiện như sau:
Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách
Giáo dục có thể mang lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh di truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem lại được.
Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do khuyết tật bẩm sinh, hoặc bệnh tật đem lại cho con người.
Giáo dục có thể uốn nắn những sai lệch nào đó so với các chuẩn mực tác động tự phát của môi trươmhf gây nên và làm cho nó phát triển theo mong muốn của xã hội.
Khác với các yếu tố khác, giáo dục không chỉ thích ứng phù hợp với hiện tại, mà còn có thể đi trước hiện tại và thúc đẩy nó phát triển, trong khi tác động tự phát của xã hội chỉ ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của nó. Điều này có giá trị định hướng cho việc xây dựng mô hình nhân cách của con người Việt Nam với tư cách là mục tiêu, là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Thực tiễn xã hội đã chứng minh rằng: sự phát triển tâm lý của trẻ chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những đièu kiện của sự dạy học và giáo dục.
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong hình thành và phát triển nhân cách, song không nên tuyệt đối hóa vai trò giáo dục. Giáo dục không tách dời tự giáo dục, tự rèn luyện , tự hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân.
Nhân tố hoạt động
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, mang tính cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định.
Con người hoạt động và giao tiếp trong những điều kiện kinh tế- xã họi nhất định. Các nhà tâm lý học đã khẳng định “nhân cách của con người nói chung chỉ được hình thành trong hoạt động, dưới sự quy định của điều kiện kinh tế xã hội cụ thể”. Hoạt động ở đây bao gồm một hệ thống làm việc, những hành vi, cách xử sự và sự tuân thủ những quy tắc, chuẩn mực xã hội nhất định nhằm đảm bảo cho cá nhân tồn tại và phát triển trong các nhóm quan hệ xã hội khác nhau. Mỗi cá nhân học làm người thông qua một hệ thông họat động, làm việc trong các mối quan hệ xã hội và trong những điều kiện kinh tế nhất định.
Thông qua hoạt động của bản thân, con người lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử-xã hội do loài người phát hiện ra, biến nó thành nhân cách của mình.
Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào hoạt động ở mỗi thời kì, lứa tuổi nhất định. Muốn hình thành nhân cách con người phải tham gia vào các dạng của hoạt động khác nhau, trong đó đặc biệt chú ý tới vai trò của hoạt động chủ đạo, Vì thế phải lựa chọn, tổ chức và hướng dẫn các hoạt dộngđảm bảo bảo tính giáo dục và tính hiệu quả đối với việc hình thành và phát triển nhân cách
Hoạt động có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho nên một trong những quy luật của giáo dục là phải thay đổi tính chất hoạt động. phong phú hóa, nội dung, hình thức. cách thức tổ chức hoạt động sao cho lôi cuốn thực sự cá nhân tham gia tích cực, tự giác vào các hoạt động đó
Nhân tố giao tiếp
Giao tiếp là điều kiện tồn tại cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu giao tiếp là một nhu cầu cơ bản, xuất hiện rất sớm ở con người. Chính trong giao tiếp đã diễn ra sự hình thành nhân cách con người
Nhờ giao tiếp con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội làm thành bản chất con người, đồng thời thông qua giao tiếp, con người đóng góp tài lực của mình vào kho tang của nhân loại.
Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác, nhân thức các quan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội để tự hoàn thiện nhân cách mình.
Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người – người, là một nhân tố cơ bản của việc hình thành và phát triển tâm lí, ý thức, nhân cách
Liên hệ thực tiễn
Có thể thấy rằng 5 yếu tố nêu trên chi phối sự hình thành và phát triển của nhân cách con người. Nếu cả năm yếu tố này tác động đến con người theo cùng một hướng, trên những quan điểm giáo dục đúng đắn, thống nhất thì việc hình thành và phát triển nhân cách của con người chắc chắn sẽ tốt. Còn nếu tác động đến con người theo những cách “lệch pha” thì sẽ vô hiệu hóa, triệt tiêu lẫn nhau, gây ảnh hưởng xấu đến hình thành nhân cách con người. Để có sự thống nhất, sự cộng hưởng giữa các yếu tố nói trên, nhà trường cần phải trở thành trung tâm văn hóa giáo dục con người.
Trong hoàn cảnh xã hội ở nước ta hiện nay khi mà quan hệ sản xuất phong kiến được thay bằng quan hệ sản xuất của thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội thì nhân cách con người cũng được thay đổi con người từ vị trí thần dân nay trở thành người làm chủ đất nước vị trí đó sẽ kích thích tính tích cực, nhu cầu, hứng thú và lý tưởng…
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người.Giáo dục có tính tiên tiến và có thể đi trước vạch đường cho nhân cách do vậy nếu đưa giáo dục dân số vào nhà trường sẽ giúp cho thế hệ trẻ có những định hướng giá trị nhân cách đúng đắn, có nhận thức, thái độ và hành vi hợp lý, có hiểu biết về vấn đề dân số....
Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do khuyết tật bẩm sinh, hoặc bệnh tật đem lại cho con người trường hợp Nguyễn Ngọc Ký tuy không còn đôi tay những vẫn trở thành giáo viên, hay nghệ sỹ ghi ta Văn Vượng bị mù từ bé, nhưng nhờ có giáo dục mà trở thành tài năng âm nhạc.... Đây là cơ sở để tổ chức các trường dạy trẻ em khuyết tật, trẻ em thiệt thòi... Ngoài ra giáo dục còn giúp các em co tư chất tốt phát triển: các trường năng khiếu, trường đáo tạo chất lượng cao...
Môi trường xã hội ngoài những ảnh hưởng tích cực, còn gây ra những tiêu cực. Giáo dục có khả năng giúp học sinh phòng ngừa, loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực, động viên được tính tự giác rèn luyện, học tập của học sinh. Đó chính là hiệu quả giáo dục đối với những trẻ em hư, trẻ em phạm pháp. hoặc cải tạo lao động đối với người phạm pháp
Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho quan hệ giữa người với người, nó là điều kiện tồn tại của con người, nó giữ vai trò quan trọng trong sự hình thành phát triển tâm lý nhân cách nếu không có giao tiếp mỗi cá nhân khó có thể hình thành và phát triển nhân cách của bản thân bởi không có giao tiếp thì cá nhân sẽ không thể tham gia vào hoạt động giáo dục trường hợp những em bé được chó sói nuôi: đi bằng bốn chân, không biết nói chỉ biết rú như sói, không biết ăn thịt chín, không mặc quần áo...
Chẳng hạn như việc hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên luật, thì thông qua quá trình tác động có ý thức, có kế hoạch thì mục tiêu của nhà trường là đào tạo ra những cử nhân Luật có phẩm chất chính trị và phảm chất đạo đức, có kiến thức và năng lực để có thể tự nghiên cứu cũng như giải quyết được những vấn đề cơ bản trong lĩnh vực lập pháp (thể hiện tính tiên tiến của giáo dục). Tuy nhiên giáo dục chỉ vạch ra đường hướng cho sự phát triển nhân cách của sinh viên và thúc đẩy sinh viên đi theo hướng đó và nó sẽ không hiệu quả nếu như sinh viên không hưởng ứng không tác động, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động chẳng hạn như việc làm bài tập theo nhóm mục đích của nhà trường là tạo cơ hội cho sinh viên bước đầu có kĩ năng làm việc tập thể tuy nhiên có những sinh viên tích cực tham gia làm việc nhóm, công việc chung của tập thể như đi xin bản án hay quyết định của tóa án, tư vấn giáo viên… nhưng cũng có những sinh viên ngồi chờ “lười hoạt động” điều này quyết định trực tiếp tới việc hình thành phát triển nhân cách của sinh viên.
Khi chuyển sang phát triển theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa hội nhập, nước ta quả là có một bước dài tiến bộ về kinh tế xã hội và phát triển con người. Nhưng cũng đã đặt ra những vấn đề mới, phức tạp, nhất là vấn đề tha hóa, khủng hoảng nhân cách trên nhiều phương diện
Trở thành một người có nhân cách tốt khi trưởng thành hoàn tòan không dễ. Không thể chủ quan cho rằng “cha mẹ sinh con trời sinh tính” mà câu nói “ ở bầu thì tròn ở ống thì dài” rất đúng với việc hình thành nhân cách.
Vấn đề được đặt ra là làm thế nào để có thể phát triển nhân cách theo chiều hướng tốt?
Giáo dục nhân cách không thể bằng lời nói mà phải bằng những công việc cụ thể, mọi hành vi thái độ, lối sống của người lớn có tác động trực tiếp tới việc hình thành phát triển nhân cách của trẻ em
Người thầy có một vai trò quan trọng đối với việc rèn luyện nhân cách của học sinh, sinh viên như đã nêu ở trên giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong vệc hình thành và phát triển nhân cách
Chúng ta đã quá quen thuộc với những câu nói, chẳng hạn: “Không thầy đố mày làm nên”, “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh”. Vấn đề hiện nay là cần hiện thực hóa chúng trong cuộc sống. Theo tôi, vai trò của người thầy tác động vào nhân cách người học, ở tầm nhân tố quyết định chất lượng giáo dục, phải được thể hiện đồng bộ trên cả 3 mặt:
- Hình thành tri thức mới (mới đối với người học).
- Rèn luyện phương pháp tư duy (tư duy độc lập, tư duy phê phán và tư duy sáng tạo - một điểm đang yếu trong giảng dạy hiện nay).
- Bồi dưỡng tâm hồn trong sáng (bao hàm cả việc giáo dục lý tưởng, lẽ sống, đạo đức) cho học trò. Phải “chắp cánh” ước mơ cho các trò bay cao, bay xa...
Trong mỗi bài giảng, đều nhất thiết phải có được cái mới trên những mức độ khác nhau để đạt được yêu cầu về cả 3 mặt đó. Tri thức mới, như “vật liệu xây dựng”. Phương pháp tư duy tựa như “cách thiết kế ngôi nhà”. Chỉ có vật liệu mà không biết cách làm thì cũng như không. Song, nếu có vật liệu, biết cách xây dựng, mà không chịu / muốn / dám / say mê làm thì cũng vô dụng; nghĩa là không có tâm hồn hay tâm hồn bệnh hoạn, méo mó thì cũng hỏng
Đồng thời mỗi cá nhân cúng cần phải tích cực tham gia vào hoạt động giao tiếp, giao lưu tập thể để tâm hồn có một đời sống phong phú, nhân cách phát triển hoàn thiện, nếu giao tiếp không đầy đủ về số lượng và nội dung giao tiếp thì có thể dẫn tới bệnh “đói” giao tiếp.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Như vậy năm nhân tố di truyền, giáo dục, hoạt đông, hoàn cảnh sống, giao tiếp tác động đan xen vào nhau bổ trợ với nhau trong việc hình thành , phát triển nhân cách. Trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo, tuy nhieen cần phê phán quan điểm cho rằng góa dục là “vạn năng”, xem đứa trẻ như tờ giấp trắng mà trên đó hà giáo dục muốn vẽ sao thì vẽ
MỤC LỤC
Trang
I.Đặt vấn đề ……………………………………………………………
1
II.Giải quyết vấn đề …………………………………………………
1
1. Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
1
1.1. Di truyền ………………………………………………………….
1
1.2.Hoàn cảnh sống …………………………………………………
2
1.3. Nhân tố giáo dục ………………………………………………….
2
1.4. Nhân tố hoạt động………………………………………………….
3
1.5. Nhân tố giao tiếp………………………………………………
4
2. Liên hệ thực tiễn……………………………………………………
5
III. Kết thúc vấn đề……………………………………………………
8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tâm lí học đại cương, Nxb.Công an nhân dân,Hà Nội 2008.
Đặng Thị Nga (chủ biên), Giáo trình tâm lý học đại cương, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2010
Nguyễn Ngọc Bích, Tam lí học nhân cách, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001.
Website: