Điều 58 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Quyền thừa kế là một quyền Hiến định của công dân và được Nhà nước bảo đảm bằng việc nhiều văn bản pháp luật như Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật dân sự năm 1995, Luật đất đai năm 2003, Bộ luật dân sự năm 2005.
21 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2552 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề cơ bản về pháp luật thừa kế của Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những vấn đề cơ bản về pháp luật thừa kế của Việt nam
Điều 58 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Quyền thừa kế là một quyền Hiến định của công dân và được Nhà nước bảo đảm bằng việc nhiều văn bản pháp luật như Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật dân sự năm 1995, Luật đất đai năm 2003, Bộ luật dân sự năm 2005...
1.Quyền thừa kế:
Quyền thừa kế được xác định ở 1 loạt các văn bản pháp luật quan trọng như: Pháp lệnh thừa kế năm 1990 (khoản 1 điều 36); Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (điều 31); Bộ luật dân sự năm 1995 ( điều 634, 648); Bộ luật dân sự năm 2005 (điều 631, 645). Nội dung quyền thừa kế bao gồm quyền để lại di sản cho người thừa kế, quyền được hưởng di sản thừa kế, quyền yêu cầu chia di sản thừa kế, quyền yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc quyền bác bỏ quyền thừa kế của người khác. Người có tài sản có quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình bằng cách để lại cho người khác thông qua việc lập di chúc. Người thừa kế có thể hưởng thừa kế trên cơ sở di chúc hoặc theo quy định của pháp luật (là trường hợp không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp...).
Quyền thừa kế phát sinh đối với cá nhân là người đã thành niên có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Đối với người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Người để lại thừa kế có quyền lập di chúc để lại di sản cho bất kỳ ai dù người đó có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng với mình hay không.
Người thừa kế là người được hưởng di sản của người chết theo di chúc hoặc theo pháp luật và có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức.
-Trường hợp người thừa kế là cá nhân: Người thừa kế là cá nhân thì phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau thời điểm mở thừa kế đã kết hôn với người khác cũng vẫn được hưởng thừa kế miễn là tại thời điểm người để lại thừa kế chết, giữa họ vẫn tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Tương tự, trường hợp vợ chồng đã phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được hưởng thừa kế di sản.
Vợ chồng đã ly hôn nhưng chưa có bản án hoặc quyết định cho ly hôn có hiệu lực pháp luật của Toà án mà nếu 1 người chết thì người còn sống vẫn được hưởng thừa kế.
Con riêng với bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.
Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau. Ngoài ra, con nuôi còn được thừa kế về phía cha, mẹ đẻ của mình theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.
- Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân: Cơ quan, tổ chức được xác định là người thừa kế theo di chúc với điều kiện là đang tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Cá nhân được hưởng di sản thừa kế có thể là người đã thành niên hoặc chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, người đang bị giam giữ, người đang phải thi hành án hình sự, người vắng mặt, người đang ở nước ngoài... trừ các trường hợp pháp luật quy định như:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Tuy nhiên những người này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết trong cùng một thời điểm hoặc được coi là chết trong cùng một thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước, thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng (trừ trường hợp thừa kế thế vị- đây là 1 điểm mới của Bộ luật dân sự 2005).
Bên cạnh đó, có những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc như: con chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động, cha, mẹ, vợ, chồng của người đó. Những người này sẽ được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu như di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn 2/3 suất đó, trừ khi họ là những người từ chối hưởng di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật.
Pháp luật còn quy định những trường hợp thừa kế có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài này được xác định khi: có ít nhất một người trong bên để lại di sản hoặc bên nhận thừa kế có quốc tịch nước ngoài hoặc đang thường trú ở nước ngoài; tài sản thừa kế tồn tại ở nước ngoài; di chúc được lập ở nước ngoài.
Bên cạnh quyền hưởng di sản, pháp luật còn quy định quyền của người thừa kế được từ chối nhận di sản trừ trường hợp từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản của mình đối với người khác. Pháp luật quy định trình tự thủ tục từ chối nhận di sản như sau: việc từ chối di sản phải được lập thành văn bản và người từ chối phải thông báo cho những người sau đây biết như: người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, Công chứng Nhà nước hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản. Thời hạn từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế.
2.Di sản thừa kế:
Thừa kế là việc chuyển tài sản của người chết cho người khác (là cá nhân đang còn sống hoặc pháp nhân đang tồn tại) theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Trong các loại tài sản để lại thừa kế thì bất động sản được quan tâm đến nhiều nhất mà đặc biệt là nhà ở và quyền sử dụng đất.
Quyền thừa kế gắn liền với quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tuy nhiên quyền sử dụng đất đai thuộc sở hữu toàn dân cũng được thừa kế theo quy định của pháp luật.
Di sản thừa kế phải là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người để thừa kế và tài sản này bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền. Tài sản đó là tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Tài sản riêng mà người để thừa kế là chủ sở hữu hợp pháp gồm có: tư liệu sinh hoạt như bàn ghế, giường tủ, chăn màn, tivi, tủ lạnh, bếp ga...; tư liệu sản xuất như nhà xưởng, máy móc để sản xuất, dụng cụ sản xuất...; vốn sản xuất hoặc kinh doanh hợp pháp; nhà ở; trái phiếu; tiền tiết kiệm gửi ngân hàng hoặc quỹ tín dụng; các thu nhập hợp pháp khác như tiền thưởng, tiền trúng xổ số, tiền nhuận bút...
Phần tài sản của người để lại thừa kế trong khối tài sản chung với người khác là phần tài sản thuộc sở hữu chung của người chết với những chủ thể khác như: phần vốn góp trong công ty cổ phần, phần nhà đất cùng chung mua với người khác...
Quyền về tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự cũng được coi là tài sản. Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong quan hệ dân sự như: quyền đòi nợ, đòi tài sản cho thuê cho mượn, đòi bồi thường thiệt hại...
Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế nhưng vì đây là một loại tài sản đặc biệt nên theo quy định của pháp luật đất đai thì người sử dụng đất chỉ được thực hiện quyền thừa kế khi có các điều kiện như: có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đất không có tranh chấp, quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án, trong thời hạn sử dụng đất. Theo Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ quy định về di sản thừa kế nói chung còn di sản là quyền sử dụng đất được quy định cụ thể trong Luật đất đai năm 2003.
Theo quy định tại Nghị quyết số 02 của Hội đồng thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao ban hành ngày 10/8/2004 thì quyền sử dụng đất được xác định là di sản thừa kế trong những trường hợp sau:
- Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.
- Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có 1 trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 điều 50 Luật đất đai năm 2003 (có 8 loại giấy tờ), thì kể từ ngày 1/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.
Trong các quy định của pháp luật thừa kế có những quy định cụ thể về di sản dùng vào việc thờ cúng. Đây là sự định đoạt của người chết dành 1 phần tài sản của mình để đảm bảo cho việc thờ cúng mình và thờ cúng tổ tiên. Phần di sản thờ cúng chỉ dùng vào việc thờ cúng mà không được chia cho những người thừa kế và người lập di chúc sẽ chỉ định người được giao quản lý, sử dụng. Người được giao quản lý di sản thờ cúng chỉ có quyền sử dụng, thu lợi của tài sản để thực hiện việc thờ cúng chứ không có quyền sở hữu đối với tài sản đó.
Liên quan đến di sản thừa kế, quy định về người quản lý di sản thừa kế cũng được xác định là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thoả thuận cử ra. Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì những người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản. Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
Người quản lý di sản có nghĩa vụ lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản thừa kế mà người khác đang chiếm hữu; bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản; thông báo về di sản cho những người thừa kế; bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây ra thiệt hại; giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế....
Ngoài ra người quản lý di sản có quyền đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế; được tiếp tục sử dụng di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế; được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế...
3.Thời điểm mở thừa kế và thời hiệu khởi kiện về thừa kế:
Quy định này rất quan trọng vì liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người thừa kế cụ thể là quyền thừa kế của họ có được bảo vệ bằng pháp luật hay không.
Căn cứ để xác định quyền thừa kế phát sinh là thời điểm mở thừa kế-đó là thời điểm người để lại tài sản chết. Người có tài sản để thừa kế có thể lập di chúc định đoạt nhưng thời điểm mở thừa kế chỉ bắt đầu khi người có tài sản chết. Việc mở thừa kế được xác định bởi thời điểm mở thừa kế, tức là ngày giờ người để lại di sản chết theo giấy khai tử hoặc theo quyết định của toà án tuyên bố một người là đã chết.
Yêu cầu xác định thời điểm mở thừa kế là bắt buộc vì liên quan đến việc xác định tài sản, nghĩa vụ của người chết. Đây cũng là thời điểm để xác định những người thừa kế của người để lại di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Chỉ từ thời điểm mở thừa kế thì những người thừa kế mới có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản hoặc nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc có phần lớn di sản.
Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là thời hạn mà người thừa kế được quyền khởi kiện để yêu cầu toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Pháp lệnh thừa kế và Bộ luật dân sự đều quy định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là một chế định pháp lý quan trong theo đó thì trong thời hạn 10 năm này, người thừa kế có thể thực hiện quyền thừa kế của mình bằng việc khởi kiện tại toà án để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác. Quyền thừa kế bị chấm dứt khi hết thời hạn khởi kiện mà pháp luật quy định. Bộ luật dân sự năm 2005 còn quy định thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (điều 645).
Thoả thuận là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, nên trong một số trường hợp không cần tính đến thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đó là khi di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc sở hữu chung. Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao ngày 10/8/2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình đưa ra các trường hợp như sau:
+ Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và có yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết. Cụ thể:
- Nếu có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
- Nếu không có di chúc mà các đồng thừa kế thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung này được thực hiện theo thoả thuận của họ.
- Nếu không có di chúc và giữa các đồng thừa kế cũng không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
+ Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.
Pháp luật cũng quy định những trường hợp dù đã hết thời hiệu khởi kiện nhưng nếu có những điều kiện được pháp luật quy định thì có một khoảng thời gian sẽ không tính vào thời hiệu khởi kiện. Đó là khi xảy ra một trong những trường hợp sau đây: có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm người có quyền khởi kiện không thể khởi kiện trong phạm vi thời hiệu; người có quyền khởi kiện đang chưa thành niên, đang bị mất năng lực hành vi dân sự, đang bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhưng chưa có người đại diện; người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chết nhưng chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác mà không thể tiếp tục đại diện được. Trong hai trường hợp sau thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện không quá 1 năm, Bộ luật dân sự năm 2005 đã bỏ quy định này.
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết mà khả năng cho phép như thiên tai, hoả hoạn... Tính chất không lường trước được và không thể tránh được, không khắc phục được phải được xem xét và đánh giá cụ thể trong từng trường hợp.
Bộ luật dân sự năm 2005 giải thích về trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự của mình.
Về thời hiệu khởi kiện về thừa kế, Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định cụ thể hơn Bộ luật dân sự năm 1995 như sau: Trong thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế người thừa kế có quyền khởi kiện để chia di sản thừa kế; xác nhận quyền thừa kế của mình; bác bỏ quyền thừa kế của người khác. Đồng thời người thừa kế cũng phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại trong 3 năm kể từ thời điểm mở thừa kế theo yêu cầu của người có quyền.
Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thừa kế tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án Nhân dân theo quy định tại khoản 5 điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
Đối với di sản thừa kế là quyền sử dụng đất thì thẩm quyền giải quyết được xác định như sau:
- Trường hợp đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 điều 50 Luật đất đai và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết.
-Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 10/8/2004 quy định về trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có 1 trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn liền với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất đó có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế thì phân biệt các trường hợp sau:
- Trong trường hợp đương sự có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.
- Trong trường hợp đương sự không có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để UBND cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Trong trường hợp UBND cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó thì toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.
Còn trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có 1 trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 mục 1 này và cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất tại tiểu mục 1.3 mục 1 này thì nếu có tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND theo quy định của pháp luật về đất đai (cụ thể là theo quy định tại điều 135 và 136 Luật đất đai năm 2003).
4.Thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật:
Pháp luật về thừa kế của Việt Nam quy định việc chuyển tài sản của người chết cho người khác theo hai hình thức: Theo di chúc -tức là người có tài sản lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho người khác và theo pháp luật- tức là việc người thừa kế được nhận di sản thừa kế trong trường hợp không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp và một số trường