Ngay từ những năm cuối thế kỷ XX, sự phát triển của nền kinh tế thế giới hướng theo những xu thế mới, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật (KHKT) đã đưa con người tiến những bước nhảy vọt. Những thành tựu to lớn của cách mạng KHKT đã khiến cho nền kinh tế thế giới ngày càng được Quốc tế hoá cao, đang hình thành một thị trường toàn Thế giới gồm tất cả các nước không phân biệt chế độ xã hội vừa đấu tranh vừa hợp tác để cùng phát triển.
Bước sang thế kỷ XXI, xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển ngày càngtrở thành xu thế chủ đạo trong các mối quan hệ Quốc tế. Thế giới đang xây dựng nền kinh tế với những chính sách hợp tác, hội nhập Quốc tế sâu rộng, trong đó vấn đề hiệu quả và tăng sức cạnh tranh cho các nền kinh tế được quan tâm.
Trước những xu thế hội nhập Quốc tế mạnh mẽ, trước những tác động khách quan của nền kinh tế Thế giới và những yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội Đất nước, chúng ta không thể đứng ngoài mà phải “chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả, bền vững”. Hội nhập kinh tế là phương thức tốt nhất để kết hợp nội lực với ngoại lực tạo thành sức mạnh tổng hợp đẩy nhanh công cuộc đổi mới.
Và Việt Nam đã thực sự nhập cuộc khi lần lượt là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế,chính trị trong khu vực và Thế giới như: ASEAN (1995), APEC (1998) và hội nhập AFTA. Nhờ đó đã thu được nhiều thành tựu trong mọi lĩnh vực, đặc biệt vai trò của Việt Nam trên trường Quốc tế không ngừng được nâng cao.
Sự kiện ngày 11/1/2007 là một bước ngoặt lớn đối với công cuộc phát triển kinh tế của nước nhà khi chúng ta chính thức được công nhận là thành viên chính thức của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),thực sự hoàn thành mục tiêu hoà nhập với cộng đồng Quốc tế. Gia nhập WTO, nền kinh tế nước ta đang đứng trước cơ hội rất lớn để có được sự phát triển nhảy vọt. Nhưng bên cạnh đó, do sức cạnh tranh yếu kém của nền kinh tế; những bất cập trong hệ thống pháp luật, tổ chức hành chính; trình độ KHKT và trình độ lực lượng lao động còn thấp; nhận thức về hội nhập còn kém đặt ra cho Việt Nam không ít những thách thức. Trong đó việc xây dựng một môi trường pháp lý thuận lợi, hoàn chỉnh, phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế, yêu cầu của WTO buộc chúng ta phải tiến hành cải cách hệ thống pháp luật, nhất là những quy định liên quan đến cơ chế bảo vệ Quyền SHTT- một vấn đề quan trọng thường xuyên được đưa ra bàn bạc trong WTO, cũng là bất đồng lợi ích giữa những nước phát triển với những nước đang phát triển. Nắm bắt được điều đó, nhóm 1 khi nghiên cứu về luật sở hữu trí tuệ đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Những vấn đề đặt ra đối với luật sở hữu trí tuệ trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO”. Nhưng do còn nhiều hạn chế về mặt kiến thức và tham khảo tài liệu nên nhóm em khó có thể tránh được những thiếu sót. Mong thầy thông cảm và đóng góp ý kiến để đề tài của chúng em được hoàn chỉnh hơn.
46 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2415 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề đặt ra đối với luật sở hữu trí tuệ trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngay từ những năm cuối thế kỷ XX, sự phát triển của nền kinh tế thế giới hướng theo những xu thế mới, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật (KHKT) đã đưa con người tiến những bước nhảy vọt. Những thành tựu to lớn của cách mạng KHKT đã khiến cho nền kinh tế thế giới ngày càng được Quốc tế hoá cao, đang hình thành một thị trường toàn Thế giới gồm tất cả các nước không phân biệt chế độ xã hội vừa đấu tranh vừa hợp tác để cùng phát triển.
Bước sang thế kỷ XXI, xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển ngày càngtrở thành xu thế chủ đạo trong các mối quan hệ Quốc tế. Thế giới đang xây dựng nền kinh tế với những chính sách hợp tác, hội nhập Quốc tế sâu rộng, trong đó vấn đề hiệu quả và tăng sức cạnh tranh cho các nền kinh tế được quan tâm.
Trước những xu thế hội nhập Quốc tế mạnh mẽ, trước những tác động khách quan của nền kinh tế Thế giới và những yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội Đất nước, chúng ta không thể đứng ngoài mà phải “chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả, bền vững”. Hội nhập kinh tế là phương thức tốt nhất để kết hợp nội lực với ngoại lực tạo thành sức mạnh tổng hợp đẩy nhanh công cuộc đổi mới.
Và Việt Nam đã thực sự nhập cuộc khi lần lượt là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế,chính trị trong khu vực và Thế giới như: ASEAN (1995), APEC (1998) và hội nhập AFTA. Nhờ đó đã thu được nhiều thành tựu trong mọi lĩnh vực, đặc biệt vai trò của Việt Nam trên trường Quốc tế không ngừng được nâng cao.
Sự kiện ngày 11/1/2007 là một bước ngoặt lớn đối với công cuộc phát triển kinh tế của nước nhà khi chúng ta chính thức được công nhận là thành viên chính thức của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),thực sự hoàn thành mục tiêu hoà nhập với cộng đồng Quốc tế. Gia nhập WTO, nền kinh tế nước ta đang đứng trước cơ hội rất lớn để có được sự phát triển nhảy vọt. Nhưng bên cạnh đó, do sức cạnh tranh yếu kém của nền kinh tế; những bất cập trong hệ thống pháp luật, tổ chức hành chính; trình độ KHKT và trình độ lực lượng lao động còn thấp; nhận thức về hội nhập còn kém…đặt ra cho Việt Nam không ít những thách thức. Trong đó việc xây dựng một môi trường pháp lý thuận lợi, hoàn chỉnh, phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế, yêu cầu của WTO buộc chúng ta phải tiến hành cải cách hệ thống pháp luật, nhất là những quy định liên quan đến cơ chế bảo vệ Quyền SHTT- một vấn đề quan trọng thường xuyên được đưa ra bàn bạc trong WTO, cũng là bất đồng lợi ích giữa những nước phát triển với những nước đang phát triển. Nắm bắt được điều đó, nhóm 1 khi nghiên cứu về luật sở hữu trí tuệ đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Những vấn đề đặt ra đối với luật sở hữu trí tuệ trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO”. Nhưng do còn nhiều hạn chế về mặt kiến thức và tham khảo tài liệu nên nhóm em khó có thể tránh được những thiếu sót. Mong thầy thông cảm và đóng góp ý kiến để đề tài của chúng em được hoàn chỉnh hơn.
CHƯƠNG I: PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO
I. Pháp luật bảo hộ quyền SHTT
1. Các văn bản pháp luật điều chỉnh việc bảo hộ quyền SHTT
Trước khi gia nhập WTO Việt Nam đã làm nhiều việc để phù hợp với các quy định của TRIPS để có thể sớm hội đủ các điều kiện gia nhập WTO. Do đó việc hoàn thiện hệ thống pháp luật SHTT là một việc làm cần thiết. Cụ thể Việt Nam sửa đổi Bộ luật dân sự trong đó tái khẳng định những nguyên tắc cơ bản của quyền SHTT (phần VI của Bộ luật) và ban hành luật SHTT điều chỉnh tất cả các khía cạnh của quyền SHTT. Bộ luật dân sự (Luật số 33/2005/QH11 ngày 14/06/2005 thay thế Bộ luật dân sự 1995-gọi là Bộ luật dân sự 2005) đãcó hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Luật SHTT (Luật số 50/2005/QH11 ngày 29/11/2005 (gồm VI phần, XVIII chương, 222 điều) – gọi là luật SHTT 2005) đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 và luật sở hữu trí tuệ có sửa đổi bổ sung có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010. Do vậy hoàn toàn có thể khẳng định rằng hệ thống pháp luật SHTT Việt Nam đãđược dần hoàn thiện theo. Đây là luật chuyên ngành về SHTT đầu tiên ở Việt Nam. Sự ra đời của luật SHTT đãthay thế toàn bộ các Nghị định và văn bản hướng dẫn về từng lĩnh vực của trước đó. Luật SHTT cùng thống nhất và tập hợp các quy định về SHTT rải rác trong các văn bản trước đây trong một luật chung với sự phân định rõ ràng thành ba lĩnh vực: Bản quyền, sở hữu công nghiệp và giống cây trồng. Bên cạnh đó các quy định về bảo hộ cũng được đưa vào luật như một phần riêng phản ánh tầm quan trọng của hoạt động này. Tương ứng với các luật SHTT, trong năm 2006 Chính phủ và các Bộ cùng ban hành hàng loạt Nghị định và thông tư hướng dẫn:
+ Nghị định 100/2006/ NĐ-CP ngày 21/09/2006 (gồm VII chương 48 điều) hướng dẫn thi hành một số điều của bộ luật dân sự và luật SHTT về quyền tác giả và quyền liên quan.
+ Nghị định103/2006/ NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật SHTT năm 2005 về sở hữu công nghiệp.
+ Nghị định 104/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật SHTT năm 2005 về quyền đối với giống cây trồng.
+ Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006(gồm VIII chương 63 điều) hướng dẫn thi hành một số điều của luật SHTT và quyền bảo vệ quyền SHTT.
+ Nghị định 106/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 (gồm V chương 37 điều) quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
+ Luật SHTT “áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân Nước ngoài, đáp ứng các điều kiện quy định tại luật này và điều ước Quốc tế mà Cộng Hoà XHCN Việt Nam là thành viên” (Điều 2-Phần thứ nhất -Luật SHTT).
2. Một số khái niệm được đề cập tại luật SHTT
- Quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ bao gồm: Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
- Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
- Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mãhoá.
- Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn lọc hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu.
- Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét,màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.
II. Quyền tác giả
Thực chất quyền tác giả là quyền con người, là nhân quyền. Quyền tác giả là một quyền đặc biệt. Vì vậy đối tượng được bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản. Khách thể quyền tác giả là tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học. Chủ thể là công dân - tác giả.
1. Loại hình được bảo hộ.
Tại điều 141 luật SHTT 2005 quy định các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm:
- Tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học được bảo hộ bao gồm:
- Tác phẩm văn học, khoa học, SGK, giáo trình và các tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc kí tự khác.
- Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác.
- Tác phẩm báo chí.
- Tác phẩm âm nhạc.
- Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (gọi chung là tác phẩm điện ảnh).
- Tác phẩm tạo hình, mĩ thuật ứng dụng.
- Tác phẩm nhiếp ảnh.
- Tác phẩm kiến trúc.
- Bản hoạ đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình công trình khoa học.
- Tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
- Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
“ Công trình khoa học” bao gồm các công trình lí thuyết viết về khoa học tự nhiên, xãhội, kĩ thuật và kinh tế. “Tác phẩm báo chí” bao gồm những tác phẩm xuất hiện trên báo.
“Tác phẩm khác” là một quy định mở đề cập tới tác phẩm thuộc loại hình khác mà pháp luật được quy định bảo hộ quyền tác giả nhưng chưa được liệt kê trong danh mục.
Các tác phẩm nói trên sẽ không được bảo hộ nếu trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng hoặc tổn hại đến an ninh quốc gia.
Việc quy định “các tác phẩm báo chí” và tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian” là loại hình tác phẩm được bảo hộ có lẽ chưa hợp lí và chưa có tính thuyết phục, đòi hỏi cần phải điều chỉnh. Báo chí chỉ là vật mang tin. Người ta có thể đăng tải trên nó bài viết, bản nhạc, tác phẩm nhiếp ảnh, mỹ thuật… vốn cũng là loại hình tác phẩm theo quy định của Điều 14 luật SHTT 2005. Hơn nữa, định nghĩa thuật ngữ “tác phẩm văn học và nghệ thuật “tại điều 2 khoản 1 công ước Beren không có quy định nào về tác phẩm báo chí. Quy định “tác phẩm văn học, dân gian” là loại hình tác phẩm được bảo hộ tại điêu 14 dường như mâu thuẫn với điều 23 theo đó: “Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian bao gồm : a.Truyện thơ, câu đối; b.Điệu hát, làn điệu âm nhạc; c.Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi; d. Tác phẩm nghệ thuật đồ hoạ, hội hoạ, điêu khắc, nhạc cụ, hình mẫu kiến trúc và các loại hình nghệ thuật khác đựơc thể hiện dưới bất kì hình thức vật chất nào”. Quy định tại điều 23 được hiểu là tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian có nhiều loại hình khác nhau đó lại được quy định cụ thể ở các khoản của điều.
2. Về các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ.
Điều 15 luật SHTT 2005 quy định 3 đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả. Đáng chú ý là quy định đối với 2 đối tượng là “ tin tức thời sự thuần tuý đưa tin” ( khoản 4 ) và “văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó” (khoản 2). Quy định như khoản 1 là hoàn toàn tương thích với quy định tại điều 2 khoản 6 công ước Berne là “ tin tức thời sự hay vụ việc vụn vặt chỉ mang tính chất thông tin báo chí”. Quy định như khoản 2 thì hơi khác với công ước Berne. Công ước Berne không quy định quyền bảo hộ tác giả đối với văn bản đó nhưng lại để mở cho pháp luật quốc gia thành viên quyền quy định việc bảo hộ (Điều 2 khoản 4), mở cho pháp luật quốc gia thành viên quyền quy định việc bảo hộ (Điều 2 khoản 4).
3. Giới hạn quyền SHTT
Luật SHTT quy định giới hạn của việc thực hiện quyền SHTT trong đó có quyền tác giả và quyền liên quan tại điều 7: “Việc thực hiện quyền SHTT không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm các quy phạm khác của pháp luật liên quan”, “trong trường hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng an ninh, dân sinh và các lợi ích của Nhà nước, xã hội quy định tại luật này, Nhà nước có quyền cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền SHTT thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ thể quyền SHTT phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền của mình với những điều kiện phù hợp”.
Quy định này không chỉ khẳng định chủ quyền Quốc gia mà còn loại trừ quy định trước đây tại điều 749 Bộ luật dân sự 1995 (tác phẩm không được Nhà nước bảo hộ), một điều khoản đã bị phê phán rất nhiều vì nó quy định điều kiện bảo hộ quyền tác giả dựa trên nội dung vào chất lượng của tác phẩm hoàn toàn trái với nguyên tắc phát sinh quyền tác giả được pháp luật Quốc tế thừa nhận là: “Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng kí hay chưa đăng kí. Quy định này cũng hoàn toàn tương thích với quy định tại điều 17 công ước Berne cho phép các nước thành viên có quyền “trong việc cho phép hoặc kiểm soát hay cấm bằng các biện pháp thuộc lập pháp hay hành pháp của Quốc gia, sự lưu hành, trình diễn hay triển lãm những tác phẩm hoặc sản phẩm này mà Nhà chức trách thấy cần phải sử dụng quyền đó”.
4. Nội dung, giới hạn, thời hạn bảo hộ quyền tác giả
- Nội dung:
Tiến bộ rõ nét của luật SHTT 2005 so với Bộ luật dân sự 1995 thể hiện ở việc quy định quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, đồng thời, quy định thành từng điều riêng đối với 2 loại quyền này (điều 19 và điều 20). Các quy định này tránh được sự mô tả lẫn lộn giữa 2 quyền đối với từng nhóm đối tượng “tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm”, “chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả” tại các điều 751, 752, 753 Bộ luật dân sự 1995.
Sau khi quy định nội dung cụ thể của quyền nhân thân, quyền tài sản luật SHTT 2005 xác định từng loại chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng những quyền gì trong số các quyền nhân thân và quyền tài sản đó. Cách quy định vừa cụ thể, vừa logic.
Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ còn quy định một số quyền độc quyền tài điều 4.2 chương II (quyền nhập khẩu bản sao của tác phẩm; quyền phân phối công khai lần đầu bản gốc và mỗi bản sao tác phẩm dưới hình thức bán cho thuê hoặc các hình thức khác; quyền truyền đạt tác phẩm tới công chúng; quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao chính máy tính).
Như vậy, trong văn bản dưới luật sắp tới, cần phải hướng dẫn thật cụ thể các quyền độc quyền theo hưởng thể hiện các quy định về các quyền này theo từng nhóm (nhóm các vấn đề quy định về sao chép, nhóm các quy định về quyền phân phối, nhóm các quy định về quyền cho thuê…).
- Giới hạn quyền:
Để đảm bảo được sự cân bằng giữa lợi ích của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng sử dụng tác phẩm, luật SHTT 2005 phân biệt ở hai điều các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao (điều 26) các quy định này là sự phát triển có kế thừa các điều 760 và 761 Bộ luật dân sự 1995 đồng thời đã ít nhiều khai thác phạm vi giới hạn và ngoại lệ cho phép trong pháp luật và tập quán Quốc tế. Tuy nhiên nếu so sánh các quy định về giới hạn ngoại lệ tại bộ luật SHTT 2005 và luật SHTT 2005 với các quy định tại các điều ước Quốc tế sẽ thấy là các quy định này vẫn còn hẹp so với phạm vi cho phép các quy định về giới hạn và ngoại lệ về quyền tác giả và quyền liên quan nằm rải rác trong các điều ước Quốc tế: Công ước Berne (điều 2 khoản 1, điều 2 khoản 2, điều 9.2, điều 10.2, điều 11 khoản 3); Thoả thuận TRIPS (điều 11,13,14.6)…
- Thời hạn bảo hộ:
Các quyền nhân thân, trừ quyền công bố hoặc ghi âm cho phép người khác công bố tác phẩm được bảo hộ vô thời hạn (điều 27 khoản 1 luật SHTT 2005). Các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm được quy định rất cụ thể:
Đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh, thời hạn bảo hộ là 50 năm kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.
Đối với tác phẩm điện ảnh, sân khấu được công bố - 50 năm tính từ khi tác phẩm được định hình.
Đối tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác phẩm xuất hiện thì thời gian bảo hộ là suốt đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết.
Đối với tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ 50 năm sau đồng tác giả cuối cùng chết. Quy định này là phù hợp với công ước Berne (điều 7, điều 7 khoản)
III. Quyền sở hữu công nghiệp
1. Sáng chế
Điều 58.1 luật SHTT 2005 quy định sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng được các điều kiện:
- Có tính mới.
- Có trình độ sáng tạo.
- Có khả năng áp dụng công nghiệp.
Các đối tượng không được bảo hộ thuộc 3 loại chính:
- Các đối tượng không phải là sáng chế, bao gồm: ý đồ, nguyên lý và phát minh khoa học, lý thuyết và phương pháp toán học, sáng tạo thẩm mỹ; Phương pháp và hệ thống quản lý kinh tế; Phương pháp và hệ thống giáo dục, giảng dạy và đào tạo; chương trình máy tính; Bản thiết kế và sơ đồ quy hoạch các công trình xây dựng; Đề án quy hoạch và phân vùng lãnh thổ.
- Các đối tượng được bảo hộ theo hình thức khác ngoài sáng chế sáng chế như giống cây trồng và vật nuôi.
- Các đối tượng không có khả năng áp dụng công nghiệp như: Phương pháp phòng bệnh, chẩn đoán bệnh và chữa bệnh cho người và động vật; Các quy trình chủ yếu mang bản chất sinh học để sản xuất động vật hoặc thực vật nhưng không phải là quy trình phi sinh học hoặc quy trình vi sinh.
Chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích có độc quyền sử dụng, chuyển giao quyền sở hữu và chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho người khác. Chủ sở hữu có quyền yêu cầu người khác chấm dứt hành vi xâm phạm và có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra.
Thời hạn hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế và bằng độc quyền giải pháp hữu ích tương ướng 20 và 10 năm tính từ năm nộp đơn – có hiệu lực từ ngày cấp. Thời hạn này là phù hợp với điều 33 của hiệp định TRIPS.
Chủ sở hữu sáng chế hoặc người được li-xăng độc quyền có nghĩa vụ sử dụng sáng chế (hoặc chuyển giao quyền sử dụng) phù hợp với phát triển kinh tế - xãhội của Việt Nam (điều 136.1 và 142.5 luật SHTT 2005) và chủ sở hữu sáng chế phải trả thù lao cho tác giả sáng chế nếu như chủ sở hữu không đồng thời là tác giả (điều 135 luật SHTT 2005).
Quyền chuyển giao quyền sở hữu hoặc để thừa kế đối với sáng tác của mình và quyền kí kết hợp đồng li-xăng được bảo đảm bởi điều 123.1 của luật SHTT 2005.
Luật pháp Việt Nam và Quốc tế đều bảo đảm quyền tác giả về văn học, nghệ thuật cho cả tác phẩm đã đăng kí lẫn chưa đăng kí bản quyền. Điều này có thể chấp nhận vì nó tỏ rõ tính ưu việt của luật pháp đối với mọi công dân. Bất kỳ một sản phẩm nào ra đời là nhận ngay được sự bảo hộ của luật pháp.
Từ năm 1986 đến 2003 đãcó 14.161 tác phẩm đăng kí bản qyền. Điều này đã thể hiện ý thức giữ gìn, tôn trọng bản quyền tác giả của tri thức và văn nghệ sĩ.
Trong các trường hợp ngoại lệ, việc sử dụng sáng chế được bảo hộ không được coi là vi phạm, đó là sử dụng không nhằm mục đích thương mại, phân phối, lưu thông đã được chủ sở hữu,người có quyền sử dụng trước hoặc người được chuyển giao quyền sử dụng đưa ra thị trường; hoặc sử dụng sáng chế trên các phương tiện vận chuyển của nước ngoài đang quá cảnh hoặc tạm thời nằm trong lãnh thổ Việt Nam và việc sử dụng này chỉ nhằm duy trì hoạt động của các phương tiện đó.
2. Kiểu dáng công nghiệp
Chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ có độc quyền sử dụng, chuyển giao quyền sở hữu hoặc chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp đó cho người khác (Điều 123 của luật SHTT 2005), quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc người khác chấm dứt hành vi xâm phạm và quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm đó gây ra (Các điều 225 và 751 của Bộ luật dân sự 2005 và Điều 198 của luật SHTT 2005).
Pháp luật hiện hành của Việt Nam về kiểu dáng công nghiệp cũng đã phù hợp với các yêu cầu của Điều 26.1 Hiệp định TRIPS. Mặc dù các quy định liên quan không được diễn đạt giống như lời văn của Hiệp định TRIPS nhưng các quy định của Điều 123.1,124.2,126.1 của Luật SHTT 2005 cũng đã bao hàm việc sản xuất, bán hoặc nhập khẩu sản phẩm mang khiểu dáng “về cơ bản là bản sao” của kiểu dáng được bảo hộ.
3. Thiết kế bố trí mạch tích hợp
Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được bảo hộ theo các điều 4.4,6.3(a) và phần III luật Sở hữu trí tuệ 2005 bên cạnh đó Việt Nam đã ban hành Nghị định của Chính phủ số 103/2006NĐ - CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một só điều của luật sở hữu trí tuệ 2005 về sở hữu công nghiệp, trong đó có các quy định liên quan đến thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.
4. Nhãn hiệu
Nhãn hiệu có thể là từ ngữ, chữ cái, ảnh, hình ảnh – bao gồm cả hình khối – hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc (Điều 72 của Luật SHTT 2005). Một dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của các chủ sở hữu khác nhau có thể được bảo hộ dưới danh nghĩa là nhãn hiệu, trừ khi bị loại trừ bảo hộ theo quy định tại Điều 73 Luật SHTT 2005. Các dấu hiệu không được bảo hộ bao gồm các dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với quốc kỳ, quốc huy; cờ ,biểu tượng, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị –xã hội, tổ chức nghề nghiệp chính trị xã hội, tổ chức xã hội và các tổ chức xã hội nghề nghiệp của Việt Nam hoặc các tổ chức quốc tế, trừ trường hợp được các cơ quan tổ ch