Chứng khoán theo quan điểm truyền thống là phương tiện xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc phần vốn góp của tổ chức phát hành. Chứng khoán xác nhận quyền, lợi ích của người sở hữu, điều đó cũng có nghĩa là xác định quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét trên phương diện pháp lý.
Ở Việt Nam, khái niệm chứng khoán được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn góp của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán”.
b. Đặc điểm của chứng khoán.
Là một loại hàng hóa đặc biệt, chứng khoán có những đặc điểm khác biệt so với các loại hàng hóa thông thường khác:
Thứ nhất: Tính sinh lời: thể hiện ở việc người phát hành ra chúng phải trả cho người sở hữu chứng khoán một khoản lợi nhuận trong tương lai để nhận về mình quyền sử dụng vốn. Lợi nhuận do chứng khoán mang lại có thể là cố định hoặc biến đổi tùy thuộc vào từng loại chứng khoán. Là một loại hàng hóa đặc biệt, chứng khoán tạo ra một khoản tiền lớn hơn giá trị ban đầu mà nhà đầu tư đưa vào kinh doanh. Tính sinh lời của chứng khoán đã tạo nên sức hấp dẫn của thị trường chứng khoán và là hình thức đầu tư được nhiều nhà đầu tư lựa chọn.
Thứ hai: Tính rủi ro: bản chất của hoạt động đầu tư luôn tiềm ẩn trong nó những rủi ro. Việc kinh doanh chứng khoán là một hoạt động đầu tư để thu lợi nhuận trong một khoảng thời gian nhất định. Mức độ rủi ro của chứng khoán phụ thuộc vào nhiều yếu tố: thời gian đầu tư, chủ thể nhận vốn, thực trạng, triển vọng của chủ thể phát hành. Tính rủi ro luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ với tính sinh lời và khả năng thanh khoản của chứng khoán.
Thứ ba: Chứng khoán có khả năng thanh khoản cao: có nghĩa là khả năng chuyển đổi thành tiền mặt một cách dễ dàng của chứng khoán. Đây vừa là đặc điểm vừa là lợi thế của chứng khoán làm cho chứng khoán được lưu hành rộng rãi trên thị trường. Tính thanh khoản của chứng khoán xuất phát từ nhu cầu mua bán, sử hữu chứng khoán của các nhà đầu tư, thị trường chứng khoán. Điều này tạo thuận lợi cho người sở hữu chứng khoán khi không muốn nắm giữ chứng khoán, họ có thể bán cho người khác để thu tiền mặt hoặc chuyển một khoản đầu tư dài hạn thành ngắn hạn. Tính thanh khoản của chứng khoán tạo nên sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, góp phần làm cho thị trường chứng khoán trở nên sôi động.
Thứ tư: Chứng khoán có tính không đồng nhất giữa mệnh giá thị giá: giá cả của chứng khoán không thể xác định bằng biện pháp thông thường như đối với hàng hóa, dịch vụ khác. Giá trị của chứng khoán có thể tăng hoặc giảm tùy thuộc vào doanh nghiệp phát hành và thị trường. Việc định giá chúng phải căn cứ vào thực trạng và triển vọng của người phát hành, điều đó đòi hỏi phải có chuyên môn cao.
c.Phân loại chứng khoán.
Dựa vào các tiêu chí khác nhau, chứng khoán được phân thành nhiều loại. Cách phân loại thông dụng là dựa vào mối quan hệ giữa chủ thể phát hành và nhà đầu tư, chứng khoán được chia thành:
Thứ nhất: Cổ phiếu: là một loại chứng khoán phát hành dưới dạng bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của công ty cổ phần. Cổ phiếu gồm cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
Thứ hai: Trái phiếu: là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành trái phiếu với người sở hữu trái phiếu.
Thứ ba: Chứng chỉ quỹ đầu tư: là loại chứng khoán do công ty quản lý quỹ hoặc các quỹ đầu tư phát hành xác nhận quyền lợi của nhà đầu tư đối với quỹ phát hành.
13 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2135 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những vấn đề lý luận cơ bản về chứng khoán và chào bán chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài làm
I.Những vấn đề lý luận cơ bản về chứng khoán và chào bán chứng khoán.
1.Những vấn đề cơ bản về chứng khoán.
a.Khái niệm.
Chứng khoán theo quan điểm truyền thống là phương tiện xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc phần vốn góp của tổ chức phát hành. Chứng khoán xác nhận quyền, lợi ích của người sở hữu, điều đó cũng có nghĩa là xác định quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét trên phương diện pháp lý.
Ở Việt Nam, khái niệm chứng khoán được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn góp của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán”.
b. Đặc điểm của chứng khoán.
Là một loại hàng hóa đặc biệt, chứng khoán có những đặc điểm khác biệt so với các loại hàng hóa thông thường khác:
Thứ nhất: Tính sinh lời: thể hiện ở việc người phát hành ra chúng phải trả cho người sở hữu chứng khoán một khoản lợi nhuận trong tương lai để nhận về mình quyền sử dụng vốn. Lợi nhuận do chứng khoán mang lại có thể là cố định hoặc biến đổi tùy thuộc vào từng loại chứng khoán. Là một loại hàng hóa đặc biệt, chứng khoán tạo ra một khoản tiền lớn hơn giá trị ban đầu mà nhà đầu tư đưa vào kinh doanh. Tính sinh lời của chứng khoán đã tạo nên sức hấp dẫn của thị trường chứng khoán và là hình thức đầu tư được nhiều nhà đầu tư lựa chọn.
Thứ hai: Tính rủi ro: bản chất của hoạt động đầu tư luôn tiềm ẩn trong nó những rủi ro. Việc kinh doanh chứng khoán là một hoạt động đầu tư để thu lợi nhuận trong một khoảng thời gian nhất định. Mức độ rủi ro của chứng khoán phụ thuộc vào nhiều yếu tố: thời gian đầu tư, chủ thể nhận vốn, thực trạng, triển vọng của chủ thể phát hành. Tính rủi ro luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ với tính sinh lời và khả năng thanh khoản của chứng khoán.
Thứ ba: Chứng khoán có khả năng thanh khoản cao: có nghĩa là khả năng chuyển đổi thành tiền mặt một cách dễ dàng của chứng khoán. Đây vừa là đặc điểm vừa là lợi thế của chứng khoán làm cho chứng khoán được lưu hành rộng rãi trên thị trường. Tính thanh khoản của chứng khoán xuất phát từ nhu cầu mua bán, sử hữu chứng khoán của các nhà đầu tư, thị trường chứng khoán. Điều này tạo thuận lợi cho người sở hữu chứng khoán khi không muốn nắm giữ chứng khoán, họ có thể bán cho người khác để thu tiền mặt hoặc chuyển một khoản đầu tư dài hạn thành ngắn hạn. Tính thanh khoản của chứng khoán tạo nên sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, góp phần làm cho thị trường chứng khoán trở nên sôi động.
Thứ tư: Chứng khoán có tính không đồng nhất giữa mệnh giá thị giá: giá cả của chứng khoán không thể xác định bằng biện pháp thông thường như đối với hàng hóa, dịch vụ khác. Giá trị của chứng khoán có thể tăng hoặc giảm tùy thuộc vào doanh nghiệp phát hành và thị trường. Việc định giá chúng phải căn cứ vào thực trạng và triển vọng của người phát hành, điều đó đòi hỏi phải có chuyên môn cao.
c.Phân loại chứng khoán.
Dựa vào các tiêu chí khác nhau, chứng khoán được phân thành nhiều loại. Cách phân loại thông dụng là dựa vào mối quan hệ giữa chủ thể phát hành và nhà đầu tư, chứng khoán được chia thành:
Thứ nhất: Cổ phiếu: là một loại chứng khoán phát hành dưới dạng bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của công ty cổ phần. Cổ phiếu gồm cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
Thứ hai: Trái phiếu: là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành trái phiếu với người sở hữu trái phiếu.
Thứ ba: Chứng chỉ quỹ đầu tư: là loại chứng khoán do công ty quản lý quỹ hoặc các quỹ đầu tư phát hành xác nhận quyền lợi của nhà đầu tư đối với quỹ phát hành.
2.Chào bán chứng khoán riêng lẻ.
a.Khái niệm.
Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán. Chủ thể chào bán chứng khoán rất đa dạng, có thể là chính phủ, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp.
Việc đưa chứng khoán từ nơi phát hành đến với người có nhu cầu mua chứng khoán có nhiều cách thức khác nhau. Chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ hiện nay đang là hai phương thức được sử dụng rộng rãi:
Theo quy định tại Khoản 12 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 thì: “chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức sau đây:
Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet;
Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;
Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định”.
Chào bán chứng khoán riêng lẻ là hoạt động chào bán của chủ thể phát hành cho các khách hàng đặc biệt, thường là các nhà đầu tư có tổ chức. Riêng chào bán cổ phần riêng lẻ được định nghĩa tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định 01/2010/NĐ-CP đó là việc chào bán cổ phần hoặc quyền mua cổ phần trực tiếp và không sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng cho một trong các đối tượng sau:
Các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;
Dưới 100 nhà đầu tư không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
b.Đặc điểm của chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Bên cạnh những đặc điểm chung của hoạt động chào bán chứng khoán, phương thức chào bán chứng khoán riêng lẻ còn có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Chào bán chứng khoán riêng lẻ có phạm vi chào bán hẹp, chỉ hướng tới một số đối tượng nhất định. Các doanh nghiệp khi chào bán chứng khoán riêng lẻ thường nhằm vào một số đối tượng trong và ngoài doanh nghiệp. Thường thì số lượng chứng khoán chào bán hạn chế và ít được công khai như chào bán chứng khoán ra công chúng nên chỉ một bộ phận nhỏ nhà đầu tư có thể tiếp cận được chứng khoán do doanh nghiệp chào bán. Đây là nét đặc trưng rất riêng biệt của chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Thứ hai: Chào bán chứng khoán riêng lẻ chịu sự điều chỉnh của pháp luật riêng. Các doanh nghiệp khi thực hiện chào bán chứng khoán riêng lẻ thường chịu sự điều chỉnh của những luật khác nhau: Luật doanh nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật có liên quan. Các điều kiện về trình tự, thủ tục chào bán, quản lý Nhà nước về chào bán chứng khoán của mỗi loại doanh nghiệp chào bán phụ thuộc vào văn bản pháp luật điều chỉnh loại hình doanh nghiệp đó.
Thứ ba: Chào bán chứng khoán riêng lẻ thường gắn với sự ra đời của các công ty cổ phần hoặc cổ phần hóa doanh nghiệp. Các công ty cổ phần thực hiện huy động vốn thường bằng chào bán chứng khoán riêng lẻ. Khi tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp, các doanh nghiệp có thể chào bán chứng khoán trực tiếp cho cán bộ, công nhân viên chức trong công ty và bán cho các nhà đầu tư bên ngoài.
c.Vai trò của chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Các hoạt động huy động vốn có vai trò nhất định đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung, chào bán chứng khoán riêng lẻ cũng không nằm ngoài quy luật đó. Chào bán chứng khoán riêng lẻ có một vài vai trò sau:
Thứ nhất: Chào bán chứng khoán riêng lẻ là một phương thức huy động vốn hữu hiệu của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp luôn có nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, trong khi đó trên thị trường có rất nhiều nguồn vốn nhàn rỗi. Để tận dụng các nguồn vốn đó, các doanh nghiệp có thể phát hành chứng khoán doanh nghiệp. Chào bán chứng khoán riêng lẻ đang là một cách thức huy động vốn linh hoạt, hiệu quả mà ít phải thông qua tổ chức trung gian tài chính khác. Khả năng tiến hành chào bán chứng khoán riêng lẻ đối với các doanh nghiệp không quá khó, không đòi hỏi đáp ứng các điều kiện khắt khe, cũng không phải chịu sự quản lý nghiêm ngặt của cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán như chào bán chứng khoán ra công chúng. Nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động được từ chào bán chứng khoán riêng lẻ là nguồn vốn có khả năng sử dụng lâu dài, các doanh nghiệp có thể chủ động trong việc hoàn trả. Bên cạnh đó, khi chào bán cổ phần có thể làm thay đổi vốn cổ phần của doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp.
Thứ hai: Chào bán chứng khoán riêng lẻ luôn gắn với sự thành lập và hoạt động của các công ty cổ phần. Cùng với các hoạt động khác như đăng kí kinh doanh, thông báo thành lập doanh nghiệp…chào bán chứng khoán riêng lẻ để tạo lập vốn là cơ sở cho việc thành lập mới hoặc chuyển đổi từ các loại hình doanh nghiệp khác sang hình thức công ty cổ phần. Huy động vốn thông qua chào bán chứng khoán riêng lẻ là phương thức hữu hiệu để có vốn đầu tư cho sự tồn tại và phát triển của các công ty cổ phần.
Thứ ba: Chào bán chứng khoán riêng lẻ là biện pháp thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Hiện nay chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đang được Đảng và Nhà nước quan tâm. Khi tiến hành cổ phần hóa, các doanh nghiệp sẽ bán cổ phần của công ty cho các cán bộ, công nhân viên chức trong doanh nghiệp và một số nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp nhằm huy động thêm vốn mới và nâng cao vai trò chủ động tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Cơ hội doanh nghiệp có thêm vốn, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh, sản xuất khi chuyển đổi cơ cấu từ sở hữu Nhà nước sang đa sở hữu góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Chào bán chứng khoán doanh nghiệp chỉ có thể tiến hành khi doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang cổ phần hóa. Chính vì vậy mà chào bán chứng khoán riêng lẻ luôn gắn với sự thành lập và hoạt động của công ty cổ phần.
II.Điều kiện, trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ cho đến nay Việt Nam vẫn chưa có văn bản pháp luật thống nhất quy định về vấn đề này nên phải tuân thủ những quy định pháp luật nằm rải rác trong Luật doanh nghiệp năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành; nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày ngày 26 tháng 6 năm 2007 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần và các văn bản hướng dẫn thi hành; nghị định 38/2003/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2003 về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần; nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp và nghị định 01/2010/NĐ-CP ngày 4 tháng 1 năm 2010 về chào bán cổ phần riêng lẻ.
1.Chủ thể phát hành chứng khoán riêng lẻ.
Chủ thể phát hành chứng khoán riêng lẻ gồm bộ phận các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, các công ty cổ phần mới thành lập theo Luật doanh nghiệp, các công ty chứng khoán phi đại chúng và công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn đầu tư trong nước hoặc có vốn đầu tư nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 01/2010/NĐ-CP thì chủ thể phát hành cổ phần riêng lẻ bao gồm: công ty cổ phần, các doanh nghiệp chuyển đổi thành công ty cổ phần, ngoại trừ các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần.
2.Điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ.
a. Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ.
Đối với công ty cổ phần mới thành lập: trước hết công ty đó phải có Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Sau khi đã đăng kí kinh doanh hợp lệ, công ty cổ phần có quyền chào bán số lượng cổ phiếu được quyền chào bán đã được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần: phải đáp ứng các điều kiện cổ phần hóa và các điều kiện minh bạch thông tin trước khi chào bán. Doanh nghiệp muốn cổ phần hóa trước hết phải là doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, hai là chỉ được tiến hành cổ phần hóa nếu còn vốn Nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại giá trị doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp muốn cổ phần hóa là đơn vị hạch toán phụ thuộc của các doanh nghiệp thuộc đối tượng cổ phần hóa còn phải thỏa mãn thêm 3 điều kiện: phải có đủ điều kiện hạch toán độc lập, việc cổ phần hóa đơn vị hạch toán độc lập này không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp và đã xác định trong phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Điều kiện minh bạch thông tin trước khi chào bán cổ phiếu riêng lẻ đòi hỏi doanh nghiệp chào bán phải công bố thông tin về bản thân doanh nghiệp cổ phần hóa. Những thông tin này phải được công bố trước khi chào bán 20 ngày để nhà đầu tư có thời gian tìm hiểu cần thiết về loại cổ phiếu sẽ chào bán để có quyết định đầu tư đúng đắn.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần thông qua chào bán cổ phiếu riêng lẻ thì phải đáp ứng các điều kiện: ba điều kiện cần thiết để được chuyển đổi thành công ty cổ phần: phải huy động đủ vốn pháp định theo quy định tại Giấy phép đầu tư trước khi tiến hành chuyển đổi, phải có thời gian hoạt động chính thức tối thiểu 3 năm và trong năm thứ 3 liền kề năm chuyển đổi hình thức hoạt động doanh nghiệp phải làm ăn có lãi, phải có hồ sơ đề nghị chuyển đối sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần; sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, doanh nghiệp phải công bố rộng rãi về việc chuyển đổi hình thức doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đảm bảo nhà đầu tư nắm được những thông tin cần thiết.
b.Điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ.
Trước tiên: doanh nghiệp đó phải được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty Nhà nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần hoặc phải là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Kể từ khi chính thức bước vào hoạt động cho tới khi thực hiện việc chào bán trái phiếu riêng lẻ doanh nghiệp phải có thời gian hoạt động ít nhất là một năm; doanh nghiệp phải có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán; doanh nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu của pháp luật về năng lực kinh doanh, thể hiện ở số lãi của hoạt động sản xuất, kinh doanh năm liền kề trước năm phát hành; doanh nghiệp phải có phương án phát hành trái phiếu đã được tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền của doanh nghiệp thông qua.
Tùy thuộc vào hình thức sở hữu của doanh nghiệp phát hành trái phiếu và loại trái phiếu sẽ được chào bán mà cơ quan có thẩm quyền thông qua phương án phát hành trái phiếu khác nhau. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cơ quan này là hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên nếu chào bán trái phiếu thường hoặc đại hội cổ đông của công ty cổ phần trong trường hợp chào bán trái phiếu chuyển đổi. Đối với doanh nghiệp Nhà nước, phương án chào bán trái phiếu phải được Bộ tài chính chấp thuận.
c. Điều kiện chào bán cổ phần riêng lẻ.
Để chào bán cổ phần riêng lẻ, doanh nghiệp phải có quyết định thông qua phương án chào bán cổ phần riêng lẻ và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị theo Điều lệ công ty hoặc ủy quyền của Đại hội đồng cổ đông cho Hội đồng quản trị (đối với công ty cổ phần); hoặc Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển thành công ty cổ phần); hoặc chủ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Hội đồng quản trị doanh nghiệp liên doanh (đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần); phương án chào bán phải xác định rõ đối tượng và số lượng nhà đầu tư được chào bán dưới 100 nhà đầu tư và hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng 01 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán; trường hợp chào bán cho các đối tác chiến lược, tổ chức chào bán phải xây dựng tiêu chí xác định, lựa chọn đối tác chiến lược. Đối tác chiến lược là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp; chuyển giao công nghệ mới, cung ứng nguyên vật liệu, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm; gắn bó lợi ích lâu dài với doanh nghiệp. Trường hợp tổ chức chào bán là doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành liên quan.
3.Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Thứ nhất: nếu chứng khoán chào bán là cổ phần thì phải làm thủ tục đăng kí với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hồ sơ đăng kí được quy định tại Điều 9 nghị định 01/2010/NĐ-CP.
Thứ hai: Công bố thông tin trước khi chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Trường hợp chào bán trái phiếu: chủ thể phát hành phải công khai báo cáo tài chính đã được kiểm toán của năm trước năm phát hành làm cơ sở cho nhà đầu tư đánh giá thực trạng kinh doanh của tổ chức phát hành; tổ chức phát hành phải công bố phương án phát hành trái phiếu được tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông qua; tổ chức phát hành phải công khai kết quả xếp loại của tổ chức định mức tín nhiệm đối với tổ chức phát hành trái phiếu và loại trái phiếu chào bán; tổ chức phát hành phải công bố quyền lợi của người mua trái phiếu và cam kết của mình đối với người sở hữu trái phiếu.
Ngoài ra, nếu chào bán trái phiếu chuyển đổi, tổ chức phát hành phải công khai, tại thời điểm chào bán các thông tin cần thiết về điều kiện chuyển đổi, thời hạn chuyển đổi, tỉ lệ chuyển đổi trái phiếu, biên độ biến động giá cổ phiếu, mục đích sử dụng nguồn thu được từ đợt chào bán trái phiếu và các quyền lợi khác của người sở hữu trái phiếu. Nếu chào bán trái phiếu không chuyển đổi, tổ chức phát hành phải chú trọng việc công khai mục đích sử dụng nguồn tiền thu được từ đợt chào bán trái phiếu.
Trường hợp công ty cổ phần phi đại chúng đã thành lập và đang hoạt động có nhu cầu chào bán thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ thì phải chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ ở công ty sau khi đã thông báo bằng văn bản về việc chào bán thêm cổ phiếu.
Trường hợp tổ chức phát hành là doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, trước khi cổ phần hóa phải tự tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp hoặc thuê tổ chức định giá có tên trong danh sách do Bộ tài chính công bố. Khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và công bố giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa thì không cần công bố các thông tin liên quan đến doanh nghiệp. Tổ chức phát hành hoặc tổ chức trung gian đứng ra phát hành cổ phiếu chỉ có nghĩa vụ công bố công khai về thời gian, địa điểm, hình thức bán cổ phiếu, điều kiện tham gia mua cổ phiếu, số lượng cổ phần dự kiến bán và các thông tin cần thiết khác.
Tương tự như vậy, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng chỉ được chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần sau khi phương án chuyển đổi đã được Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì lấy ý kiến các Bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và phê duyệt. Tuy nhiên, trước khi chào bán, doanh nghiệp vẫn phải thông báo rộng rãi về việc chuyển đổi hình thức hoạt động.
Thứ ba: Phân phối chứng khoán.
Việc phân phối chứng khoán trong phát hành chứng khoán riêng lẻ có thể được phân phối bởi chính tổ chức phát hành hoặc có thể thông qua tổ chức trung gian là nhà bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành.
Riêng đối với hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ thì sau khi chào bán cổ phần riêng lẻ, tổ chức chào bán phải thực hiện các nghĩa vụ quy định tại Điều 10 nghị định 01/2010/NĐ-CP.
III.Đánh giá, nhận xét và một số kiến nghị
1.Ưu điểm.
Trong thời gian qua, hoạt động chào bán cổ phần cho các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp hoặc dưới 100 nhà đầu tư không phải nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, gọi tắt là chào bán cổ phần riêng lẻ, đã trở thành một công cụ huy động vốn khá hiệu quả. Mặc dù Bộ Tài chính đã ban hành Công văn số 14285/BTC – UBCK ngày 26/11/2008 để hướng dẫn thực hiện một số điểm của Chỉ thị số 20/2008/CT – TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý thị trường chứng khoán, trong đó hướng dẫn các quy trình chào bán cổ phần riêng lẻ mà doanh nghiệp phải thực hiện nhưng doanh nghiệp vẫn khó tránh khỏi sai phạm trong quá trình áp dụng khi các quy định đó còn chưa cụ thể và chưa có chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm.