Đề tài Những yếu tố ảnh hưởng đến thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay

Nếu như Thuế đã xuất hiện từ rất lâu đời, thì thuế GTGT có thể coi là loại thuế hiện đại. Được xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1954 tại Pháp, thuế GTGT dưới hình thức thuế đánh vào giai đoạn sản xuất. Đến năm 1968, thuế này được nhập vào thuế lưu thông đánh vào dịch vụ và thuế địa phương đánh vào lưu thông bán lẻ thành một loại thuế thống nhất chung thu ở giai đoạn bán. Từ đó đến nay do tính ưu viết của mình, thuế GTGT ngày càng được sử dụng rộng khắp ở nhiều nước trên thế giới. Thuế GTGT được sớm áp dụng ở Châu âu, chỉ hơn hai mươi năm sau khi ra đời hình thức sơ khai đầu tiên, nó đã được coi là một trong những điều kiện tiên quyết để gia nhập khối EC (năm 1977). Tính đến năm 1995, trên thế giới có tới hơn 100 nước áp dụng thuế GTGT. Riêng Châu á kể từ năm 80 trở lại đây đã có sự gia tăng vượt bậc về số lượng các thành viên sử dụng VAT. Đầu tiên là Triều Tiên (1977), tiếp đến là Indonexia (1985), Đài Loan (1986), Philipine (1988), Mông Cổ (1993), Trung Quốc (1994) và Việt Nam (1999)(1). Cho đến nay, loại thuế này đã được áp dụng trên 120 quốc gia, vùng lãnh thổ(2).

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2164 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những yếu tố ảnh hưởng đến thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Một số vấn đề cơ bản về pháp luật thuế giá trị gia tăng 1. Sự ra đời và phát triển của thuế GTGT trên thế giới và tại Việt Nam Nếu như Thuế đã xuất hiện từ rất lâu đời, thì thuế GTGT có thể coi là loại thuế hiện đại. Được xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1954 tại Pháp, thuế GTGT dưới hình thức thuế đánh vào giai đoạn sản xuất. Đến năm 1968, thuế1. Từ: 2. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, tr 61. này được nhập vào thuế lưu thông đánh vào dịch vụ và thuế địa phương đánh vào lưu thông bán lẻ thành một loại thuế thống nhất chung thu ở giai đoạn bán. Từ đó đến nay do tính ưu viết của mình, thuế GTGT ngày càng được sử dụng rộng khắp ở nhiều nước trên thế giới. Thuế GTGT được sớm áp dụng ở Châu âu, chỉ hơn hai mươi năm sau khi ra đời hình thức sơ khai đầu tiên, nó đã được coi là một trong những điều kiện tiên quyết để gia nhập khối EC (năm 1977). Tính đến năm 1995, trên thế giới có tới hơn 100 nước áp dụng thuế GTGT. Riêng Châu á kể từ năm 80 trở lại đây đã có sự gia tăng vượt bậc về số lượng các thành viên sử dụng VAT. Đầu tiên là Triều Tiên (1977), tiếp đến là Indonexia (1985), Đài Loan (1986), Philipine (1988), Mông Cổ (1993), Trung Quốc (1994) và Việt Nam (1999)(1). Cho đến nay, loại thuế này đã được áp dụng trên 120 quốc gia, vùng lãnh thổ(2). Ở Việt Nam, trước năm 1990, thuế doanh thu áp dụng với các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể và cá thể. Điều lệ thuế công thương nghiệp ban hành theo Nghị quyết số 200/NQ-TVQH ngày 18/01/1966 quy định loại thuế này. Năm 1990, Quốc hội ban hành luật thuế doanh thu, áp dụng chung cho các chủ thể có hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng thuế doanh thu này có hạn chế cơ bản là “thuế đánh chồng lên thuế”, chế độ thuế suất phức tạp, khó cho quá trình áp dụng, dễ gây vi phạm pháp luật. Do đó, nước ta cũng thực hiện từng bước thay thế Luật thuế doanh thu bằng Luật thuế GTGT . Để Luật thuế GTGT được chính thức ban hành năm 1977 và có hiệu lực từ 01/01/1999, Chính phủ Việt Nam đã nghiên cứu và từng bước áp dụng loại thuế doanh thu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp tương tự như thuế GTGT từ năm 1993 như hoạt động mang tính thử nghiệm. Theo đó, Luật thuế GTGT năm 2008 cũng được Quốc hội ban hành. 2. Thuế giá trị gia tăng Thuế giá trị gia tăng (GTGT) là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hòa, nhận dịch vụ. Điều 2 Luật thuế GTGT 2008 quy định: “Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Như vậy, bản chất của thuế GTGT là loại thuế gián thu. Nghĩa là, các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng lại thực chất là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa dịch vụ. Thuế GTGT có nhiều điểm tương đồng với các loại thuế đánh vào hàng hóa, dịch vụ khác (như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu), nhưng có thể nhận diện được thuế GTGT qua đặc điểm: Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Tức là mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ thể thực tế phải trả một phần thu nhập cho hành vi tiêu dùng. Thứ hai, thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ. Do đó, khi đánh thuế GTGT vào hàng hóa, dịch vụ đó không gây ra những đột biến giá cả cho người tiêu dùng. Thứ ba, dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa, dịch vụ số thuế giá trị tăng phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. 3. Pháp luật thuế giá trị gia tăng Pháp luật thuế GTGT là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, nộp thuế, quản lý và quyết toán thuế GTGT. Theo đó, pháp luật thuế GTGT có 2 đặc điểm cơ bản: Thứ nhất, pháp luật thuế GTGT có tác động trong phạm vi rộng, đến tất cả các đối tượng trong xã hội (mọi đối tượng có thu nhập, sử dụng một phần thu nhập phục vụ đời sống). Thứ hai, chỉ có thể được ban hành khi các điều kiện áp dụng đạt đến mức độ nhất định. Những điều kiện ở đây chủ yếu là tiêu chuẩn về kế toán, chế độ chứng từ hóa đơn và khả năng quản lý của chính các cơ quan tham gia quản lý thu thuế GTGT. Ban hành Luật thuế GTGT được coi là bước đột phá trong quá trính cải cách, hoàn thiện về hệ thống pháp luật thuế. Để đảm bảo tính hiệu quả, pháp luật thuế GTGT cần đáp ứng một số yêu cầu: Một là, đảm bảo tính thống nhất, tính ổn định và tính khả thi. Hai là, đảm bảo tính đơn giản trong quá trình áp dụng. Tính đơn giản thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau: - Đơn giản về cách hiểu, áp dụng đối với cơ quan quản lý, thu thuế; - Đơn giản về cách hiểu, tuân thủ đối với đối tương nộp thuế GTGT; - Đơn giản về thủ tục trong suốt quá trình quản lý và chịu sự quản lý về thuế GTGT. Ba là, hệ thống pháp luật thuế GTGT cần hướng tới người nộp thuế. Như là phải tôn trọng người nộp thuế trong việc kê khai, nộp thuế. Đi kèm là chế tài nghiêm khắc với việc vi phạm pháp luật thuế GTGT gồm chế tài hành chính với mức phạt cao, chế tài hình sự áp dụng đối với nhiều loại hành vi vi phạm khác nhau. II. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay Về mặt lý thuyết, thuế GTGT mang tính khoa học rất cao, có khả năng tạo được công bằng trong việc thu thuế, thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích phát triển sản xuất, bảo đảm nguồn thu cho Ngân sách nhà nước. Điểm nổi bật của thuế GTGT là khắc phục được nhược điểm thu trùng lắp, chồng chéo qua nhiều khâu của thuế doanh thu. Từ lâu sự chồng chéo này của thuế doanh thu đã gây nhiều kêu ca, phàn nàn của hầu hết cơ sở kinh doanh và người tiêu dùng vì nó ảnh hưởng tiêu cực đến giá cả hàng hoá. Thuế doanh thu tính trên toàn bộ giá bán qua từng khâu có nghĩa là trong trường hợp mua cao, bán hạ, doanh nghiệp vẫn phải nộp thuế doanh thu. Ngược lại, thuế GTGT chỉ thu trên giá trị tăng thêm mà doanh nghiệp tạo ra, thậm chí doanh nghiệp còn được hoàn thuế đầu vào cao hơn thuế đầu ra. Tuy nhiên do thuế GTGT là một phương pháp đánh thuế tiên tiến, nhưng còn rất mới đối với Việt Nam nên không tránh khỏi những vướng mắc trong quá trình thực hiện. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay là: 1. Những yếu tố thúc đẩy việc triển khai thực hiện thuế GTGT - Chính phủ, Ban chỉ đạo triển khai các luật thuế mới của Chính phủ, các Bộ, các Ngành, các địa phương đã bám sát sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Bộ chính trị, Quốc hội, của UBTVQH để tổ chức triển khai thực hiện luật thuế GTGT. Trong quá trình triển khai Ban chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, các địa phương đã bám sát cơ sở sản xuất kinh doanh, phát hiện những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện các luật thuế mới, nghiên cứu, đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp như: bổ xung vào danh mục hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT tại Điều 5 Luật thuế GTGT năm 2008 v.v.. Mở rộng việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào (Điều 12 Luật thuế GTGT năm 2008) v.v..Các ban chỉ đạo đã quản lý tốt thị trường, giá cả, đặc biệt là trong thời gian đầu áp dụng pháp luật thuế GTGT mới. - Công tác tuyên truyền, phổ biến luật về thuế, tập huấn nghiệp vụ có nhiều tiến bộ hơn so với các đợt triển khai các luật thuế trước đây. Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương và các địa phương đã phối hợp chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền, các đài báo Trung ương và địa phương đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế, để đẩy mạnh tuyên truyền giải thích các luật thuế mới, phản ánh kịp thời những gương điển hình thực hiện tốt các luật thuế mới cũng như những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện các luật thuế mới. - Các cơ sở kinh doanh và mọi tầp lớp nhân dân đều hưởng ứng và đồng tình thực hiện pháp luật thuế GTGT do nhận thức được các luật sự tiến bộ và ưu việt hơn pháp luật thuế GTGT. - Sự phấn đấu nỗ lực của ngành Thuế quan và ngành Hải Quan từ việc chuẩn bị triển khai đến việc tổ chức thực hiện pháp luật thuế GTGT. 2. Một số yếu tố gây vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật thuế GTGT 2.1. Thuế suất thuế GTGT khá cao. Mức thuế suất thuế GTGT 10% tính cho các hàng hóa, dịch vụ thông thường cho tiêu dùng là khá cao, làm giảm sức mua, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá gặp nhiều khó khăn. Mức thuế suất 10% được quy định tại khoản 3 Điều 8 Luật thuế GTGT năm 2008. Mặc dù theo lý luận, thuế GTGT do người tiêu dùng trả, không gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhưng nếu thuế suất cao, giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ sẽ cao, người tiêu dùng khó chấp nhận, tiêu thụ sẽ gặp khó khăn, các doanh nghiệp muốn bán được hàng buộc phải hạ giá bán và bị thua lỗ. Để tránh bị thua lỗ, các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất. 2.2. Thuế GTGT làm đảo lộn mức thuế phải nộp. Thuế GTGT được thiết kế với mức thu tương đương thuế doanh thu với mục tiêu ổn định quan hệ phân phối giữa Nhà nước với nền kinh tế xét trên tổng thể, nhưng thực tế có làm đảo lộn mức thuế phải nộp của các ngành khác nhau. Có ngành thuế phải nộp tăng gấp bội so với thuế doanh thu, có ngành lại thấp hơn nhiều. Tương quan phân phối giữa các ngành bị đảo lộn vướng mắc phát sinh không chỉ liên quan đến lỗ lãi mà còn liên quan đến vấn đề mới. 2.3. Thuế GTGT gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp về vốn Qui định phải nộp thuế GTGT đối với những mặt hàng nhập kho nhưng chưa bán làm cho một số doanh nghiệp khó khăn trong vấn đề vốn. Đặc biệt với những doanh nghiệp với số vốn ít thì qui định này làm cho họ thật sự điêu đứng. Nhiều doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng vốn vay này khi áp dụng luật thuế GTGT phải vay thêm vốn để nộp cho phần thuế đầu vào, gánh nặng thiếu vốn đã nặng nay lại càng nặng thêm cho dù sau này sẽ được khấu trừ thuế hay hoàn thuế. Trường hợp các doanh nghiệp bán hàng đại lý khi chuyển hàng cho đại lý phải nộp ngay thuế GTGT, trong khi đó chỉ khi nào đại lý bán được hàng mới thu được thuế GTGT từ người mua. Như vậy vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng một cách bất hợp lý. 2.4. Tốc độ hoàn thuế cho doanh nghiệp còn chậm Quá trình thủ tục xin hoàn thuế khá rắc rối, mất nhiều thời gian và công sức của các doanh nghiệp. Để được hoàn thuế, các doanh nghiệp phải nộp hồ sơ và toàn bộ hoá đơn, chứng từ lên cơ quan thuế rồi chờ nhân viên thuế xuống đơn vị kiểm tra, đối chiếu hoá đơn thực hiện bằng phương pháp thủ công, kéo dài thời gian kiểm tra làm chậm việc hoàn thuế, bên cạnh đó còn nhiều hiện tượng tiêu cực khác cũng gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp. 2.5. Tình trạng gian lận thuế GTGT Có thể kể đến một số nguyên nhân gây nên tình trạng gian lận về thuế GTGT: - Tính mới của thuế GTGT. Tính mới của thuế GTGT thể hiện ở những điểm: Cơ sở tính thuế là GTGT chứ không phải doanh thu hay lợi nhuận; Quy trình thu và quản lý thuế mang tính công nghệ; Diện chịu thuế với thuế suất 0% khác cơ bản diện không chịu thuế; Khấu trừ thuế khác nhau giữa các mặt hàng chịu thuế GTGT và mặt hàng không chịu thuế GTGT; Hoá đơn GTGT và hoá đơn thường; ... Khái niệm thuế GTGT đầu vào, thuế GTGT đầu ra và đặc biệt là thuế GTGT đầu ra bằng 0 đồng còn quá mới mẻ đối với người kinh doanh. Những điểm nói trên không chỉ mới đối với người nộp mà đối với cả cơ quan thu thuế. Tất nhiên, cái gì mới thoạt đầu sẽ được hiểu một cách lệch lạc, thậm chí bị một số cá nhân xấu lợi dụng để tư lợi. - Cơ sở kế toán quốc dân chưa hình thành hoặc chưa được chuẩn bị. Các cơ sở kinh doanh quy mô dưới doanh nghiệp tư nhân không quan tâm đến chế độ kế toán quốc dân mà phản ánh hoạt động kinh doanh theo logic thô sơ. Nguy hiểm hơn, họ cho rằng sổ sách kế toán là công cụ của cơ quan Nhà nước kiểm tra, kiểm soát họ mà không nghĩ rằng sổ sách, tài khoản, chứng từ,... là những phương tiện căn bản giúp họ tiếp cận hoạt động kinh doanh một cách hệ thống để đánh giá, đo lường và phân tích kết quả kinh doanh cũng như dự báo tương lai. Thêm nữa, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt. Mọi thanh toán và giao dịch đều có thể dùng tiền mặt: tiền Việt, vàng và ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Điều này được các doanh nghiệp khai thác lập bộ hồ sơ thanh toán khống; đồng thời cơ quan thuế cũng khó phát hiện để ngăn chặn kịp thời. - Sự lúng túng của những cơ quan chức năng. Thể hiện rõ nét nhất là quá nhiều văn bản được ban hành. Chỉ trong một thời gian ngắn, năm 1999, Chính phủ va Bộ Tài chính cho ra đời hàng trăm văn bản liên quan đến thuế GTGT. Điều này gây ra vấn đề “chỏi nhau” trong điều hành và thực hiện. Tiếp đến, cơ chế “xin – cho” xuất hiện: xin được hưởng thuế suất thấp hơn, xin được nộp thuế 0%, xin mở rộng diện khấu trừ theo tỷ lệ tính trên giá mua không có hoá đơn GTGT, v.v.... Ngoài ra, việc áp dụng đồng thời hai phương pháp tính cho hai loại đối tượng nộp thuế gây nhiều tốn kém và cản trở sự vận hành của thuế GTGT trên phạm vi toàn nền kinh tế - xã hội. - Yếu kém trong dự báo và thiếu đánh giá tác động của chính sách. Vì vậy làm nảy sinh hiện tượng lập chứng từ không trung thực để chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT và gây ra những hậu quả nặng nề: Chính phủ mất tiền, dân chúng mất niềm tin chính sách thuế mới, và doanh nghiệp lương thiện nghi ngờ cách thức và năng lực điều hành nền kinh tế của Chính phủ. 1. Vụ công ty TNHH thương mại Việt Hùng trốn hơn 40 tỉ đồng tiền thuế có sự tiếp tay của cán bộ hải quan TP.HCM (Báo Pháp luật số 308 (1838), ngày 25 tháng 12 năm 2002, trang 7. - Thiếu sự quyết liệt trong xử phạt. Trên thực tế, thiệt hại do sử dụng hoá đơn không trung thực khiến Nhà nước thất thoát hàng trăm tỷ đồng. Có vụ, một cá nhân chiếm đoạt nhiều tỉ đồng tiền thuế. Nếu không trị quyết liệt thì luật pháp không còn khiến người ta sợ. Do đó, tình hình phạm tội liên quan đến thuế GTGT, mặc dù đã được công luận cảnh báo cơ quan chức năng, vẫn tiến triển nhanh, đa dạng, tinh vi và ngày càng lớn về số tiền thuế chiếm đoạt. - Sự thoái hoá của một số cán bộ thuế. Không hiếm trường hợp chính cán bộ thuế gợi ý và tiếp tay cho một số cá nhân ăn cắp tiền thuế(1). Chủ trương xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới bị lợi dụng với sự tiếp sức của một vài cán bộ thuế biến chất. Để thu một tỷ đồng thuế, nhiều cán bộ thuế phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian có khi cả năm. Thế nhưng chỉ cần hai ba cán bộ thuế thoái hoá cũng đủ gây thất thoát nhiều lần hơn trong thời gian ngắn. Điều này khiến cho hình ảnh về cơ quan thuế dưới con mắt doanh nghiệp và dân chúng bị hoen ố. - Thiếu phương tiện kỹ thuật hỗ trợ. thiếu hệ thống điện toán toàn diện, thiếu máy kiểm tra chuyên dùng, camera, cân điển tử, v.v.. - Sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành. Mặt khác, hiện nay hoá đơn bất hợp pháp đa dạng và phong phú chưa từng có và trở thành hàng hoá được mua bán công khai. Vấn đề này đã làm đau đầu cơ quan thuế hơn bao giờ hết. Trước đây khi thực hiện thuế doanh thu sử dụng hoá đơn giả, chỉ có thể ăn gian thuế trên số hàng bán ra, còn bây giờ, với hoá đơn giả, Nhà nước không những không thu được đồng thuế nào mà ngược lại còn phải chi thêm để hoàn thuế. 1. Nguồn: 2.6. Về việc khấu trừ thuế GTGT và xét giảm thuế GTGT Cách tính thuế đầu vào được khấu trừ trong trường hợp kinh doanh hàng hoá chịu thuế GTGT còn nhiều phức tạp (Điều 12 Luật thuế GTGT 2008, Điều 9 Nghị định 123/2008 và các văn hản hướng dẫn thi hành Luật thuế GTGT). Những qui định về khấu trừ khống và xét giảm thuế GTGT còn thiếu chặt chẽ, rườm rà, mang tính chắp vá. 2.7. Về hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn Ở nước ta thực hiện thuế GTGT đã đáp ứng hai phương pháp tính thuế cả hai loại hoá đơn, áp dụng phương pháp khấu trừ và hoá đơn GTGT đối với các doanh nghiệp đủ điều kiện hạch toán kế toán và áp dụng phương pháp trực tiếp thêm GTGT cả sử dụng hoá đơn thông thường đối với các hộ kinh doanh nhỏ. Việc áp dụng đồng thời hai cách tính thuế GTGT và hai loại hoá đơn trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay là cần thiết, song trên thực tế lại nảy sinh những bất cập gây trở ngại cho các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh. Các doanh nghiệp thực hiện theo phương pháp khấu trừ thuế không được khấu trừ đầu vào khi mua hàng hoá, dịch vụ của các đơn vị tính thuế theo phương pháp trực tiếp, gây mất công bằng trong các thành phần kinh tế, hoặc nảy ra tình trạng chống thuế. Ngoài ra, những bất cập trong kế toán thuế GTGT, trong chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường... cũng gây nhiều khó khăn cho công tác thu của ngành thuế và cho các hộ kinh doanh nhỏ. 2.8. Xử lý thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu Việc áp mã thuế thiếu chính xác, thời gian nộp thuế quá ngắn. chẳng hạn “Xe tải tự đổ có trọng tải từ 24 tấn đến 45 tấn nhập khẩu đang là “nạn nhân” của việc áp thuế không thống nhất”(1). Vấn đề hoàn thuế còn chậm và phức tạp trong kiểm tra hoá đơn. 1. Thông tư hướng dẫn thực hiện giảm 50% mức thuế suất thuế giá trị gia tăng theo Danh mục Hàng hoá của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. Do vậy nhiều doanh nghiệp phải chịu thêm lãi suất ngân hàng từ số tiền vay nộp thuế trước nhưng chậm được trả lại. Song mặt khác, chính nhiều doanh nghiệp cũng chưa nghiêm túc kê khai và hoàn thành các thủ tục cần thiết, dẫn đến tình trạng châm trễ trong việc hoàn thuế. 2.9. Chưa nhất quán trong thực hiện nguyên tắc Do phải xử lý những bất cập, chưa phù hợp với thực tế, để đảm bảo cho sản xuất kinh doanh bình thường, Chính phủ, Bộ tài chính đã phải giảm 50% thuế GTGT cho một số mặt hàng, mở rộng thêm một số đối tượng không chịu thuế GTGT(1) v.v..Tất cả những xử lý theo hướng "vướng đâu gỡ đấy" đã làm cho biểu thuế suất biến dạng ,trên thực tế gây nên sự bất hợp lý mới cho sự cạnh tranh bình đẳng của doanh nghiệp. Tạo ra hai sân chơi khác nhau trong nền kinh tế. Hiện nay thuế GTGT được tính theo hai phương pháp là phương pháp trực tiếp và phương pháp khấu trừ. Khi các đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho các đơn vị thực hiện theo phương pháp trực tiếp thi những đơn vị này không được khấu trừ, trong khi trong giá trị hàng hoá đã có phần thuế GTGT nên đã làm cho thuế đánh chồng chéo lên thuế. Ngược lại, khi các đơn vị thực hiện theo phương pháp trực tiếp có quan hệ giao dịch cung ứng dịch vụ, hàng hoá cho các đơn vị thực hiện thuế theo phương pháp khấu trừ thuế GTGT, thực chất đơn vị nhận phải trả phần thuế GTGT chìm trong giá bán mà đơn vị trực tiếp đã nộp. Từ cách thực hiện như trên ta thấy hiện đang tồn tại hai sân chơi khác nhau mà mỗi sân chơi chỉ chơi theo một hình, chính vì vậy đang hình thành hai xu hướng là một số đơn vị đang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ 1. Trích: chuyển sang nộp theo phương pháp trực tiếp và ngược lại, tuỳ thuộc vào chiến lược khách hàng của họ và dĩ nhiên là ngành thuế khó lòng giải quyết ngay đưọc. Hơn nữa, trong thực tế thu thuế tính thưo phương pháp trực tiếp rất khó chính xác, nên vẫn chủ yếu tính theo phương pháp khoán (đối với hộ nhỏ) như thuế doanh thu trước đay, chính điều này đã gây không ít lúng túng, khó khăn cho thưong nghiệp quốc doanh một khi họ phải cạnh tranh trực tiếp với các hộ buon ban tính thuế theo phương pháp trực tiếp. 2.10. Quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ còn chưa tốt Thời gian qua, việc quản lý in, phát hành, sử dụng, quản lý hoá đơn đã phát huy hiệu quả tích cực, góp phần phục vụ cho công tác quản lý thu thuế. Hóa đơn đã đóng vai trò quan trọng và trở thành chứng từ gốc để xác định việc chuyển nhượng hàng hoá, dịch vụ giữa các thể nhân, pháp nhân, làm cơ sở cho việc hạch toán, kế toán, xác định nghĩa vụ về thuế của doanh nghiệp và thanh quyết toán của các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước. Năm 2008 có gần 330.000 đơn vị sử dụng hoá đơn, tăng 1,77 lần so với năm 2003, với tổng số lượng hoá đơn sử dụng là 945,3 triệu số hoá đơn(1). Tuy nhiên, trong những năm gần đây việc sử dụng hoá đơn phát sinh nhiều vấn đề bất cập, như có hoá đơn trên thực tế không bảo đảm tính hợp pháp của chứng từ theo pháp luật về kế toán; chưa có quy định về hoá đơn điện tử đối với các hoạt động giao dịch theo Luật Giao dịch điện tử, quy định về hoá đơn đối với hàng xuất khẩu chưa phù hợp với thực tế. Việc in, phát hành, bán hoá đơn của các của các cơ quan thuế chưa đáp ứng được nhu
Luận văn liên quan