Đề tài Những yếu tố pháp lí và thực tiễn cản trở quá trình cải tổ Liên hợp quốc

Liên hợp quốc – tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh, với tôn chỉ ngăn chặn chiến tranh và xung đột, giữ gìn hoà bình và an ninh thế giới là một trong những thiết chế quốc tế quan trọng nhất của thế kỉ XX nói riêng và của toàn nhân loại nói chung. Kể từ khi thành lập, LHQ đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc giữ gìn hòa bình, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cứu trợ nhân đạo, . Tuy nhiên do những biến động phức tạp gần đây của tình hình thế giới, tổ chức này đang phải đối mặt với hàng loạt các vấn đề thuộc về lòng tin của các quốc gia về vai trò duy trì hoà bình và khả năng đối phó với những thách thức mới và cũ về an ninh, phát triển như khủng bố, đói nghèo, dịch bệnh và môi trường thực trạng đó đã và đang khiến cho Liên hợp quốc phải nỗ lực tìm kiếm các biện pháp cải tổ hệ thống Liên hợp quốc cho phù hợp với tình hình mới. Yêu cầu cải tổ Liên hợp quốc xuất hiện như là một yêu cầu khách quan của thời đại.

doc14 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1796 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những yếu tố pháp lí và thực tiễn cản trở quá trình cải tổ Liên hợp quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Liên hợp quốc – tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh, với tôn chỉ ngăn chặn chiến tranh và xung đột, giữ gìn hoà bình và an ninh thế giới là một trong những thiết chế quốc tế quan trọng nhất của thế kỉ XX nói riêng và của toàn nhân loại nói chung. Kể từ khi thành lập, LHQ đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc giữ gìn hòa bình, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cứu trợ nhân đạo, .... Tuy nhiên do những biến động phức tạp gần đây của tình hình thế giới, tổ chức này đang phải đối mặt với hàng loạt các vấn đề thuộc về lòng tin của các quốc gia về vai trò duy trì hoà bình và khả năng đối phó với những thách thức mới và cũ về an ninh, phát triển như khủng bố, đói nghèo, dịch bệnh và môi trường…thực trạng đó đã và đang khiến cho Liên hợp quốc phải nỗ lực tìm kiếm các biện pháp cải tổ hệ thống Liên hợp quốc cho phù hợp với tình hình mới. Yêu cầu cải tổ Liên hợp quốc xuất hiện như là một yêu cầu khách quan của thời đại. II. NỘI DUNG 1. Khái quát về Liên hợp quốc và vấn đề cải tổ Liên hợp quốc: 1.1. Khái quát về tổ chức Liên hợp quốc: Liên hợp quốc chính thức ra đời vào ngày 24 tháng 10 năm 1945, khi Hiến chương Liên hợp quốc được Trung Hoa dân quốc, Pháp, Liên Xô, Anh, Hoa Kì và đa số các quốc gia kí trước đó phê chuẩn. Theo Hiến chương Liên hợp quốc, các quốc gia sáng lập đã quyết tâm thiết lập LHQ thành một tổ chức quốc tế toàn cầu với mục tiêu hàng đầu là bảo đảm một nền hòa bình và trật tự thế giới bền vững. Mục đích của Liên hợp quốc được quy định tại Điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc như sau: 1. Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế... (khoản 1); 2. Phát triển những quan hệ hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, dân tộc tự quyết (Khoản 2); 3. Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế như kinh tế, xã hội, văn hóa, nhân đạo trên cơ sở tôn trọng các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ và tôn giáo (khoản 3). 4. Trở thành trung tâm phối hợp mọi hành động của các dân tộc nhằm đạt được những mục đích nói trên. Trải qua những bước thăng trầm, Liên hợp quốc đã có rất nhiều nỗ lực nhằm thực hiện những tôn chỉ, mục đích của mình. Từ con số 50 thành viên, số thành viên của Liên hợp quốc hiện nay đã lên đến con số 191 thành viên. Hoạt động của Liên hợp quốc dựa trên cơ sở những nguyên tắc được quy định tại Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc: 1. Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của các quốc gia thành viên. (khoản 1). 2. Nguyên tắc các thành viên Liên hợp quốc phải thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ theo quy định của Hiến chương. (khoản 2). 3. Nguyên tắc các thành viên của Liên hợp quốc phải giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng phương pháp hòa bình. (khoản 3). 4. Nguyên tắc không được đe dọa bằng vũ lực hay sử dụng vũ lực đê chống lại quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất cứ quốc gia nào... (khoản 4). 5. Nguyên tắc Liên hợp quốc không được phép can thiệp vào công việc thuộc thẩm quyền nội bộ của bất kỳ quốc gia thành viên nào. (khoản 7) Về cơ cấu hoạt động, Liên hợp quốc gồm sáu cơ quan chính là: Đại hội đồng, Hội đồng bảo an, Hội đồng kinh tế - xã hội, Hội đồng quản thác, Tòa án quốc tế và Ban thư kí. Các mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc mang tính bao quát, phản ánh mối quan tâm toàn diện của các quốc gia. Các quan tâm ưu tiên này thay đổi tùy theo sự chuyển biến cán cân lực lượng chính trị bên trong tổ chức này. Liên hợp quốc là tổ chức đa phương toàn cầu đầu tiên có những hoạt động thực chất và có nhiều cố gắng trong việc phối hợp và điều tiết các mối quan hệ giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền bình đẳng của các quốc gia. Một đặc điểm nổi bật khác của Liên hợp quốc là tổ chức này phản ánh sự dàn xếp và cân bằng quyền lực giữa các cường quốc thắng trận. Thực tế này được thể hiện trong cơ chế hoạt động của Hội đồng bảo an LHQ – cơ quan chấp hành có thực quyền nhất của LHQ đảm nhiệm trách nhiệm quan trọng nhất của LHQ là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Để bảo đảm lợi ích và thu hút ự tham gia của các cường quốc, Hội đồng bảo an LHQ là cơ quan duy nhất dành cho 5 cường quốc quyền phủ quyết (veto) khi thông qua các nghị quyết, quyết định của Hội đồng. Quyền hạn của Hội đồng bảo an tập trung vào hai lĩnh vực hoạt động chính là giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế và tiến hành các biện pháp cưỡng chế. Việt Nam tham gia Liên hợp quốc vào năm 1977, qua thời gian, Việt Nam đã và đang có nhiều đóng góp quan trọng đối với tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới này. Tháng 1 năm 2008, Việt Nam trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an LHQ – trung tâm quyết sách của LHQ và tháng 7 năm đó đã trở thành Chủ tịch của Hội đồng này. Vị thế của Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. . Cải tố Liên hợp quốc- yêu cầu tất yếu và khách quan. Kể từ khi thành lập đến nay, Liên hợp quốc đã đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, xây dựng mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên thế giới. Theo báo cáo được thực hiện bởi trường Đại học Columbia, kể từ khi thành lập, Liên hợp quốc đã góp phần làm giảm 40% những cuộc xung đột bạo lực, 80% những cuộc xung đột gây đổ máu nhiều nhất, 80% những cuộc diệt chủng và thanh lọc chính trị. Liên hợp quốc đã thành công ở hai phần ba các chiến dịch giữ tìn hòa bình của mình. Tuy nhiên trong bối cảnh thế giới mới hiện nay, khi mà chiến tranh lạnh đã kết thúc, quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ dẫn tới sự phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng tằng và cùng với nó là sự nổi lên của chủ nghĩa đơn phương trong quan hệ quốc tế và sự mất cân bằng trong trật tự pháp lí quốc tế. Những thay đổi trong quan niệm của các nước về chủ quyền quốc gia, về việc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Trong khi đó, hoạt động của các cơ quan của Liên hợp quốc đặc biệt là Hội đồng Bảo an lại không đáp ứng được yêu cầu thay đổi của bối cảnh quốc tế và thực tiễn cho thấy rằng các cuộc xung đột vẫn không ngừng xảy ra, các hoạt động khủng bố, việc sử dụng dụng các loại vũ khí hóa học, hay các cuộc thử vũ khí hạt nhân….vẫn tiếp diễn ở các vùng miền khác nhau trên thế giới mà chưa có một giải pháp nào giải quyết những vấn đề này. Những thất bại, chậm trễ đối trong việc can thiệp vào nạn diệt chủng ở Rwanda, Congo, tình trạng đạo đức của binh lính giữ gìn hòa bình, những bê bối trong các chương trình viện trợ nhân đạo, tình trạng thiếu hiệu năng do cơ chế quan liêu, …đã và đang ảnh hưởng nặng nề tới uy tín cũng như hiệu quả hoạt động của liên hợp quốc. Chính vì vậy, xuất phát từ yêu cầu khách quan của bối cảnh quan hệ quốc tế và yếu tố chủ quan trong nội tại các cơ quan của Liên hợp quốc, cần phải cải tổ Liên hợp quốc một cách toàn diện và triệt để. Trong lịch sử, Liên hợp quốc đã từng biết đến ba cuộc cải cách nhỏ: lần đầu vào năm 1956, khi các quốc gia quyết định tăng số lượng của Hội đồng bảo an từ 11 lên 15, lần hai và lần ba vào 1965 và 1973 với quyết định tăng số thành viên của Hội đồng kinh tế- xã hội từ 18 lên 27 và từ 27 lên 54. Từ đầu những năm 90, các nước thành viên Liên hợp quốc đã tích cực thảo luận về việc cải tổ Liên hợp quốc nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động, tăng dân chủ hóa, minh bạch, tiết kiệm hơn. Các nội dung cải tổ gồm: tăng cường vai trò của Đại hội đồng, cải tổ Hội đồng Bảo an, Ban thư ký, phương thức làm việc, tài chính... Phiên họp toàn thể Cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc khoá 60 tháng 9/2005 có tham vọng cải tổ “trọn gói” Liên hợp quốc trên 3 cụm vấn đề chính là: (i) Vấn đề phát triển và thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ; (ii) Cải tổ bộ máy Liên hợp quốc (Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh tế Xã hội...); (iii) Cải tổ Ban Thư ký và phương thức hoạt động * Về phát triển và thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs): Phiên toàn thể cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc khoá 60 tháng 9/2005 kêu gọi các quốc gia, cộng đồng quốc tế có cam kết mạnh mẽ và cụ thể hơn như: hoàn thành MDGs đúng hạn vào 2015; các nước phát triển phải tăng hỗ trợ tài chính và kỹ thuật và có kế hoạch thực hiện nghĩa vụ giành 0,7% GNP cho ODA; phấn đấu giành 50 tỷ USD cho ODA vào năm 2010;  thúc đẩy tự do hoá thương mại, sớm kết thúc vòng Đô-ha; mở rộng thêm đối tượng giảm, xoá nợ, dỡ bỏ rào cản thương mại cho các nước nghèo, kém phát triển nhất... * Cải tổ Hội đồng Bảo an: Đây là vấn đề được các nước thảo luận nhiều nhất. Có thể nói vấn đề cải tổ Hội đồng Bảo an là cốt lõi và phức tạp nhất trong cải tổ Liên hợp quốc. Các nước nhìn chung tán thành cần tăng số thành viên để nâng cao tính đại diện và dân chủ, đồng thời cần tăng hiệu quả hoạt động và tính minh bạch của Hội đồng Bảo an, nhưng còn có ý kiến rất khác nhau về hai vấn đề then chốt là việc tăng số thành viên thường trực và vấn đề quyền phủ quyết (veto): *Làm sống động vai trò của Đại hội đồng: Phiên toàn thể cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc tháng 9/2005 tiếp tục khẳng định vai trò trung tâm và quyền hạn của Đại hội đồng, nhưng không đề ra các biện pháp thực thi cụ thể mà giao cho Nhóm làm việc về làm sống động Đại hội đồng (bắt đầu họp từ 16/2/2006) đề xuất các biện pháp gia tăng vai trò, quyền hạn của Đại hội đồng, cải tiến phương pháp làm việc, chương trình nghị sự, kể cả gia tăng vai trò của Đại hội đồng trong việc lựa chọn Tổng Thư ký Liên hợp quốc. * Cải tổ Ban thư ký và phương thức làm việc:  Tổng Thư ký Liên hợp quốc đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực này. Tại Khoá 52 (1997), trên cơ sở Báo cáo của Tổng Thư ký về "Đổi mới Liên hợp quốc - Một chương trình cải tổ", Đại Hội Đồng Liên hợp quốc thông qua một loạt biện pháp nhằm cải tổ bộ máy Ban Thư ký và các cơ quan hữu quan của Liên hợp quốc theo hướng để Liên hợp quốc hoạt động hiệu quả và tiết kiệm hơn. 2. Những yếu tố pháp lý và thực tiễn cản trở quá trình cải tổ Liên Hợp Quốc: Như đã phân tích ở trên, cải tố Liên hợp quốc là một điều tất yếu và khách quan để đảm bảo hiệu quả hoạt động cũng như phát huy được vai trò của tổ chức này trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên từ quá trình cải tổ Liên hợp quốc cho chúng ta thấy rằng, việc cải tố tổ chức này không hề đơn giản, bởi lẽ có cả những yếu tố pháp lí và thực tiễn cản trở đến quá trình cải tổ này như sau. 2.1 Những yếu tố pháp lí cản trở quá trình cải tổ của Liên hợp quốc Hiến chương Liên hợp quốc- hiến pháp của Liên hợp quốc, là văn bản pháp lí quan trọng quy định cơ cấu tổ chức của Liên hợp quốc, chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan trong Liên hợp quốc, quy tắc xử sự giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế và được coi là nền tảng cho luật pháp quốc tế hiện đại. Tuy nhiên, bối cảnh lịch sử giữa thế kỷ XX và hiện nay đã thay đổi. chính vì vậy, những quy định của Hiến chương dần tỏ ra không phù hợp và không đáp ứng được các yêu cầu của quan hệ quốc tế, những hạn chế là một trong những yếu tố cản trở quá trình cải tổ của Liên Hợp quốc. Xuất phát từ quy chế ủy viên thường trực và quyền biểu quyết ghi nhận trong Hiến chương LHQ: hai vấn đề này đã tác động không nhỏ ảnh hưởng tới quá trình cải tổ LHQ, đây là một quy định bắt buộc khi thông qua bất cứ một vấn đề lớn nào thuộc về LHQ, cụ thể là các vấn đề được đưa ra thảo luận và thông qua đều phải có sự đồng thuận của những ủy viên thường trực, vấn đề cải tổ bộ máy LHQ cũng vậy. Những vấn đề được đưa ra thảo luận nhằm mục đích cải tổ bộ máy LHQ từ trước đến nay đều tập trung vào hai vấn đề cơ bản và được thảo luận sôi nổi nhất là có nên tăng thêm số nước được hưởng quy chế ủy viên thường trực hay không và nếu có thì đó là những nước nào và vấn đề quyền phủ quyết có còn được duy trì hay không và nếu có thì những quốc gia nào sẽ được hưởng những quyền đó ngoài những quốc gia hiện nay. Như vậy, hầu hết các quốc gia đều đồng thuận rằng đã đến lúc cần phải cải tổ LHQ nhưng điều này lại không thể làm được trong khuôn khổ các quy tắc hiện nay, bởi vì bất kỳ sự sửa đổi nào trong Hiến chương LHQ hoặc các vấn đề có tính chất quan trọng khác đều phải được sự đồng thuận của 5 nước ủy viên thường trực HĐBA và của hai phần ba các nước thành viên LHQ, sau đó còn phải được Quốc hội các nước phê chuẩn. Và bởi vì 5 nước ủy viên thường trực hoàn toàn thỏa mãn với quy chế hiện nay của họ nên họ không mặn mà gì với những biện pháp cải tổ được đề xuất. Điều tối đa có thể đạt được trong hoàn cảnh hiện nay là tăng thêm số lượng thành viên Hội đồng Bảo an bằng cách thỏa mãn yêu cầu của Đức, Nhật, Brazil và Ấn Độ. 4 nước này sẵn sàng từ bỏ quyền phủ quyết và chỉ yêu cầu được làm ủy viên thường trực, đồng thời thỏa mãn yêu cầu mở rộng quyền đại diện của các nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh. Tuy nhiên ngay cả trong trường hợp này thì 5 nước ủy viên thường trực hiện nay vẫn sẽ có ảnh hưởng vô cùng lớn so với khả năng có hạn của các nước ủy viên thường trực khác bởi một lẽ đơn giản: họ có quyền phủ quyết, tức là có thể phong tỏa bất kỳ nghị quyết nào. Như vậy, rõ ràng là có sự bế tắc về pháp lý: để cải tổ LHQ thì cần thay đổi Điều lệ và Hiến chương của tổ chức quốc tế này. Trong thực tế hiện nay, cải tổ LHQ sẽ là nhiệm vụ bất khả thi nếu không sửa đổi sơ bộ những văn bản nền tảng đó; Các quy định tại Chương VII về các hành động của Liên hợp quốc nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế và trên thực tế có sự khác nhau trong việc giải thích và vận dụng một số khái niệm ví dụ như khái niệm “Quyền tự vệ”. Hiện nay, quan điểm của các quốc gia khi giải thích khái niệm nay đi theo hai hướng, một số quốc gia cho rằng quyền tự vệ chỉ được thực hiện nếu quyền tự vệ chính đáng được sử dụng để chống lại một cuộc tấn công vũ trang và quyền tự vệ chính đáng chỉ được thực hiện sau khi đã bị tấn công vũ trang; một số quốc gia khác thì cho rằng quyền tự vệ được thực hiện không cần chờ đến khi bị tấn công bởi lẽ ngày nay nguy cơ khủng bố có thể xảy ra bất cứ lúc nào, mặt khác cũng có nhiều quốc g ia đang tàng trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt và tiềm tàng nguy cơ đe dọa tới hòa bình và an ninh. Nếu với quan niệm này thì liệu rằng hòa bình và an ninh quốc tế có được đảm bảo hay không? Ngoài ra, các điều từ 43 đến 47 của Hiến chương quy định về thiết lập hệ thống an ninh tập thể cũng phải được điều chỉnh sao cho sát với thực tiễn bởi trên thực tế hệ thống an ninh tập thể bị chi phối bởi tiếm lực quân sự và quân đội của một số quốc gia điển hình là Mĩ và Anh. Những hoạt động của LHQ vẫn chưa được minh bạch và có tính trách nhiệm cao, cho nên đây là những vấn đề cần phải cải tổ, nhưng để tiến hành cải tổ LHQ về các mặt này thì vẫn còn nhiều vấn đề cần phải suy xét bởi lẽ, chính LHQ nhiều khi cũng cố né tránh những câu hỏi lập pháp đúng đắn của các quốc gia, những nước đã đóng góp tiền để chi trả cho những hoạt động của LHQ và hy vọng là sẽ truyền bá được tư tưởng dân chủ bằng cách nói chuyện với các đại sứ. Căn bệnh thiếu dân chủ đã ảnh hưởng đến Liên minh châu Âu và cũng không loại trừ cả LHQ. Đây chính là một khó khăn để LHQ tiến tới cải tổ bộ máy hoạt động của mình cho phù hợp với thực tế hơn. Những khoản tiền đóng góp cho Liên Hợp Quốc – theo những khoản ngân sánh thường xuyên được đặt ra trong Đại Hội Đồng, hay trong các khoản đóng góp tự nguyện của những cơ quan chịu trách nhiệm cứu trợ người tị nạn, phát triển hay sức khoẻ trẻ em – cũng phải được công khai cho mọi người biết. Liên Hợp Quốc cần phải học cách hoạt động cho phù hợp với những cơ quan lập pháp hiện đại, bằng cách làm cho những hoạt động của mình càng minh bạch và có tính trách nhiệm cao càng tốt. Tổng ngân sách của Liên Hợp Quốc được xác lập tại Đại Hội Đồng, nhưng việc phân bổ cụ thể những khoản chi tiêu thì lại được quyết định kín bởi Ủy ban thứ năm và “Uỷ ban Cố vấn về những Vấn đề Ngân sách và Hành chính” không mấy ai biết đến. Một nhà lập pháp muốn tìm hiểu về tính hiệu quả của hoạt động gìn giữ hòa bình sẽ nhận thấy rằng cả Tổng thư ký lẫn người đứng đầu phái đoàn đều không có đủ thông tin để đưa ra những quyết định tái phân bổ nguồn lực cần thiết. Và nhiều khi Liên Hợp Quốc cũng cố né tránh những câu hỏi lập pháp đúng đắn của các quốc gia, những nước đã đóng góp tiền để chi trả cho những hoạt động của Liên Hợp Quốc, và hi vọng là sẽ truyền bá được tư tưởng dân chủ bằng cách nói chuyện với các đại sứ. Căn bệnh “thiếu dân chủ” đã ảnh hưởng đến Liên minh châu Âu và cũng không loại trừ cả Liên Hợp Quốc. 2.2. Thứ hai, những yếu tố thực tiễn cản trở quá trình cải tổ Liên Hợp Quốc Quá trình cải tổ Liên Hợp Quốc chịu sự tác động không những bởi những yếu tố pháp lý, làm cho quá trình cải tổ Liên Hợp Quốc mặc dù được đưa ra nhiều lần bởi một số quốc gia thành viên nhưng vẫn chưa đạt được một sự đồng thuận mang tính đột phá nào để góp phần cải tạo bộ máy tổ chức và khả năng hoạt động của Liên Hợp Quốc bây giờ. Một trong những yếu tố thuộc tính chất là các yếu tố thực tiễn cản trở quá trình cải tổ Liên Hợp Quốc là sự ganh đua giữa các khu vực, thể hiện các cuộc tranh cãi nảy lửa giữa các nhóm lợi ích khác nhau về một mô hình được coi là tâm điểm của cuộc tranh cãi chính là mô hình HĐBA cải tổ, tiến bộ chưa thấy song một thực tế nhãn tiền là sự chia rẽ sâu sắc giữa các nước thành viên LHQ và giữa các khối nước. Vì thế vấn đề đặt ra là cải tổ HĐBA đòi hỏi phải tìm được một gói giải pháp có thể vừa đáp ứng được mọi lợi ích chung và riêng, vừa là lời giải cho những quan ngại của tất cả các khu vực và các nước. Không ít nhà quan sát quan ngại rằng, gói giải pháp này có thể chỉ là một viễn cảnh vì lập trường giữa các nhóm lợi ích còn quá xa nhau và còn một quy định là dự án mở rộng HĐBA phải được sự nhất trí của hai phần ba số thành viên và sự tán thành của tất cả 5 nước ủy viên thường trực HĐBA. Việc mở rộng Hội đồng Bảo an có những vấn đề hết sức hiển nhiên. Một Hội đồng Bảo an có nhiều thành viên hơn sẽ khiến chúng ta phải mất nhiều thời gian hơn để đi đến quyết định, khi các thành viên phải tranh luận đến tận đêm khuya. Những cuộc cãi vã giữa các khu vực về việc trao chiếc ghế ủy viên thường trực cho những nước nào có thể dễ dàng biến thành một đặc tính gây cản trở đến khía cạnh chính trị của Liên Hợp Quốc, khiến người ta có thể chuyển hướng không chú ý đến những khủng hoảng thực sự nữa. Ngoài ra, việc mở rộng Hội đồng Bảo an có thể làm thay đổi phạm vi đưa ra quyết định của Hội đồng này. Một vài quốc gia đang cố gắng vận động để được là thành viên của Hội đồng Bảo an đã tỏ ra miễn cưỡng trong việc dùng sức mạnh quân sự cho bất kỳ mục đích nào, và những nước khác thì lại phản đối việc Liên Hợp Quốc can thiệp vào các xung đột nội chiến vì lý do chủ quyền quốc gia. Nếu không có quyền hạn thì Liên Hợp Quốc sẽ chẳng thể triển khai những lực lượng gìn giữ hòa bình, và các nước sẽ bỏ phiếu theo những tính toán phục vụ cho lợi ích quốc gia cục bộ của họ. Do đó, việc loay hoay với cơ cấu của Hội đồng Bảo an sẽ trở thành miếng mồi ngon cho qui luật “những hậu quả không lường trước” – và cuối cùng sẽ chỉ làm suy yếu khả năng hành động của Liên Hợp Quốc mà thôi. Các quốc gia dân chủ có thể tự họ hành động một cách hiệu quả -- trong những tình huống khẩn cấp về đạo đức hay trên thực tế -- sẽ ít thiên về hướng đem vấn đề của mình ra giải quyết trước Hội đồng Bảo an, vốn luôn bị cản trở bởi những quan điểm không thống nhất hoặc thiếu quyết đoán. Điều trớ trêu là việc mở rộng Hội đồng Bảo an có thể làm suy yếu khả năng hành động đa phương một cách có hiệu quả, và do đó cần được cân nhắc thật kỹ lưỡng. Liên Hợp Quốc cần phải tìm được sự cân bằng giữa những giá trị của việc có đông đảo thành viên và lòng trung thành với những giá trị cơ bản của mình. Sự thực đó là một tổ chức toàn cầu như Liên Hợp Quốc đang có xu hướng thu hẹp thành một tập hợp của những chủ nghĩa khu vực. Thông thường, những quyết định được đưa ra và những cuộc bầu cử tại Vịnh Con Rùa có thể được lý giải bằng thông lệ đưa ra những nhượng bộ chính trị trong những cuộc họp kín của khu vực. Liên Hợp Quốc lại khuyến khích điều này bằng cách hứa hẹn về những cuộc gặp gỡ và những địa điểm gặp gỡ khu vực. Đó là một sự thoái hóa khó hiểu. Khối Thịnh vượng chung của Anh vẫn tiếp tục vươn ra trên khắp thế giới, và các quốc gia khác vẫn có chung những ngôn ngữ và nền văn hoá, bất chấp họ ở vị trí khu vực nào trên bản đồ. Điều này chứng tỏ
Luận văn liên quan