Trong những năm gần đây, việc kết hôn với người nước ngoài nói chung và
với người Đài Loan và Hàn quốc nói riêng đã trở thành hiện tượng không còn là
mới mẻ ở nước ta đặc biệt là tại một số khu vực như: Hải Phòng, An Giang, Cần
Thơ, Hiện tượng này đã trở thành một đề tài nóng bỏng trên các phương tiện
truyền thông đại chúng, báo chí, các diễn đàn bởi những vấn đề ẩn chứa trong
nó.
Thời gian gần đây, báo chí trong và ngoài nước đã phanh phui rất nhiều vụ
xâm hại nghiêm trọng đến thân thể của các cô dâu Việt lấy chồng ngoại quốc. Từ
những cô dâu Việt trên đất nước Đài Loan bị sát hại như cô dâu Trần Thị Hồng
Thắm hay trở về Việt Nam trong tình trạng người không ra người như Trần Thị
Bích My, Cao Thị Hồng Nương đến những cái chết thương tâm của những cô
dâu Việt trên đất Hàn như Huỳnh Mai, Kim Đồng chính là những hình ảnh bề nổi
của phận Việt làm dâu nơi đất khách. Họ không thể và không có khả năng để chạy
trốn khỏi những nguy cơ có thể tổn hại đến sức khỏe, thậm chí là chính mạng sống
của mình. Tất cả những vấn đề hậu hôn nhân với người nước ngoài đều do các cô
dâu tự chịu trách nhiệm. Nhiều cuộc hôn nhân không những không hạnh phúc mà
những người phụ nữ phải đối mặt với nguy cơ trở thành nô lệ tình dục, bị đe dọa về
nhân phẩm và cả tính mạng.
Với nhiều vấn đề như vậy nhưng tại sao tình trạng những phụ nữ Việt Nam
kết hôn với người nước ngoài chẳng những phổ biến trong thời điểm hiện tại mà
còn có xu hướng gia tăng, chưa thể dừng lại?
28 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2942 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những yếu tố tác động đến việc kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn (Nghiên cứu những trường hợp lấy chồng là người Hàn Quốc và Đài Loan), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, việc kết hôn với người nước ngoài nói chung và
với người Đài Loan và Hàn quốc nói riêng đã trở thành hiện tượng không còn là
mới mẻ ở nước ta đặc biệt là tại một số khu vực như: Hải Phòng, An Giang, Cần
Thơ,… Hiện tượng này đã trở thành một đề tài nóng bỏng trên các phương tiện
truyền thông đại chúng, báo chí, các diễn đàn… bởi những vấn đề ẩn chứa trong
nó.
Thời gian gần đây, báo chí trong và ngoài nước đã phanh phui rất nhiều vụ
xâm hại nghiêm trọng đến thân thể của các cô dâu Việt lấy chồng ngoại quốc. Từ
những cô dâu Việt trên đất nước Đài Loan bị sát hại như cô dâu Trần Thị Hồng
Thắm hay trở về Việt Nam trong tình trạng người không ra người như Trần Thị
Bích My, Cao Thị Hồng Nương… đến những cái chết thương tâm của những cô
dâu Việt trên đất Hàn như Huỳnh Mai, Kim Đồng chính là những hình ảnh bề nổi
của phận Việt làm dâu nơi đất khách. Họ không thể và không có khả năng để chạy
trốn khỏi những nguy cơ có thể tổn hại đến sức khỏe, thậm chí là chính mạng sống
của mình. Tất cả những vấn đề hậu hôn nhân với người nước ngoài đều do các cô
dâu tự chịu trách nhiệm. Nhiều cuộc hôn nhân không những không hạnh phúc mà
những người phụ nữ phải đối mặt với nguy cơ trở thành nô lệ tình dục, bị đe dọa về
nhân phẩm và cả tính mạng.
Với nhiều vấn đề như vậy nhưng tại sao tình trạng những phụ nữ Việt Nam
kết hôn với người nước ngoài chẳng những phổ biến trong thời điểm hiện tại mà
còn có xu hướng gia tăng, chưa thể dừng lại?
Từ năm 2006 đến nay khu vực Tây Nam Bộ có 70.000 phụ nữ lấy chồng
nước ngoài, nhưng chỉ có gần 16.500 lao động nữ xuất khẩu. Con số này được Bộ
LĐ-TB&XH đưa ra tại hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2009 của Ban chỉ đạo Tây
Nam Bộ về tình hình uất khẩu lao động và phụ nữ lấy chồng nước ngoài. Theo đó,
1con số xuất khẩu lao động của cả vùng ĐBSCL ít hơn số lao động xuất khẩu của
một tỉnh miền Trung như Thanh Hóa hoặc Hà Tĩnh... nhưng số phụ nữ xuất ngoại
lấy chồng ở ĐBSCL nhiều gấp 4 lần số phụ nữ đi xuất khẩu lao động (chủ yếu là ở
Hàn Quốc và Đài Loan).
Theo số liệu khảo sát của Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ, hiện đã
có khoảng 90 ngàn cô dâu Việt tại Đài Loan - chiếm 70% cô dâu nước ngoài tại
đây. Trung bình cứ 80 gia đình Đài Loan thì có 1 cô dâu Việt.
Vậy điều gì đã dẫn tới hiện tượng được xem là “nóng bỏng” này hiện nay?
Và để đánh giá một cách tổng quát về vấn đề này, đề tài “Những yếu tố tác động
đến việc kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn” (Nghiên cứu những
trường hợp lấy chồng là người Hàn Quốc và Đài Loan) nhằm đi sâu phân tích
những tác động , những nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến quá
trình kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn Việt Nam để thấy được
thực trạng tại sao nhiều người phụ nữ nông thôn lấy chồng nước ngoài như vậy.
Việc đưa ra bức tranh tổng thể về các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là một
việc hết sức cần thiết để từ đó có những nhận định cụ thể và đúng đắn đối Hiện
tượng kết hôn với người nước ngoài của những phụ nữ nông thôn
2. Một số khái niệm được sử dụng
2.1 Kết hôn
Theo điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: kết hôn là việc nam
và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn
và đăng ký kết hôn.
2.2 Hôn nhân
- Điều 8, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 định nghĩa:
Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn
- Theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia):
2Hôn nhân một cách chung nhất có thể được xác định như một sự xếp đặt của
mỗi một xã hội để điều chỉnh mối quan hệ sinh lý giữa đàn ông và đàn bà. Nó là
một hình thức xã hội luôn luôn thay đổi trong suốt quá trình phát triển của mối
quan hệ giữa họ, nhờ đó xã hội xếp đặt và cho phép họ sống chung với nhau, quy
định quyền lợi và nghĩa vụ của họ.
Hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm, xã hội, và hoặc tôn
giáo một cách hợp pháp. Hôn nhân có thể là kết quả của tình yêu. Hôn nhân là một
mối quan hệ cơ bản trong gia đình ở hầu hết xã hội. Về mặt xã hội, lễ cưới thường
là sự kiện đánh dấu sự chính thức của hôn nhân. Về mặt luật pháp, đó là việc đăng
ký kết hôn.
2.3 Nông thôn
- Theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia): Nông thôn là danh từ để chỉ
những vùng đất trên lãnh thổ, ở đó, người dân sinh sống chủ yếu bằng nông
nghiệp.
- Một định nghĩa khác cũng cho rằng: Nông thôn là những vùng dân cư chủ
yếu sinh sống bằng nông nghiệp và những nghề khác có liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp tới sản xuất nông nghiệp.
3. Các lý thuyết Xã hội học
3.1 Lý thuyết hành vi
Cơ sở của lý thuyết này dựa trên lý luận về quá trình hình thành phản xạ có
điều kiện. Trong đó, hành vi con người được hiểu là tập hợp của nhiều hành động,
việc làm cụ thể, liên kết với nhau một cách hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng bởi
2 nhóm yếu tố:
• Các yếu tố bên trong: Tích cách, di truyền,...
• Các yếu tố bên ngoài: Văn hóa, xã hội, kinh tế,...
Chính vì thế, để lý giải những nguyên nhân dẫn tới một hành vi cụ thể, ta
cần tìm hiểu xem cá nhân đó đã chịu tác động từ các yếu tố nào. Cụ thể trong đề tài
3này, chúng ta sẽ đi tìm hiểu một số nguyên nhân xuất phát từ kinh tế, văn hóa, xã
hội ảnh hưởng tới quyết định tiến đến hôn nhân với người nước ngoài (cụ thể là
người Đài Loan và Hàn Quốc) của phụ nữ nông thôn hiện nay, tìm hiểu để đi tới
làm rõ tại sao trong khoảng thời gian gần đây, tỷ lệ phụ nữ nông thôn kết hôn với
người nước ngoài lại gia tăng một cách đáng kể.
3.2 Lý thuyết chức năng
Các tác giả của thuyết này nhấn mạnh tính liên kết chặt chẽ của các bộ phận
cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp phần
bảo đảm sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định ,
bền vững.
Nói cách khác, theo quan điểm của thuyết chức năng, xã hội là một hệ thống
gồm nhiều bộ phận tạo thành có mối liên hệ với nhau và mỗi bộ phận thực hiện
một hay một số chức năng nhất định để đảm bảo hệ thống xã hội tồn tại phát triển
ổn định. Theo đó, mỗi thành viên trong gia đình, xã hội,… phải làm đúng vị trí, vai
trò của mình.
Người phụ nữ thường được gán cho những trách nhiệm, bổn phận đối với
việc chăm sóc cho gia đình còn người đàn ông tham gia vào guồng máy sản xuất,
tạo kinh tế.
Văn hóa truyền thống Việt Nam cho rằng phụ nữ nên lấy chồng và lo lắng
việc nhà, chuyện vươn lên trên xã hội nên để người đàn ông thực hiện, tư tưởng
này vẫn còn ngự trị trong xã hội ngày nay, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Do đó,
như một số ý kiến cũng đã nhận định rằng ở nông thôn, cha mẹ luôn muốn gả con
gái mình vào một gia đình khá giả, thay vì tìm cách xây dựng cho con gái một thực
lực vững chắc để con có thể chọn chồng theo ý muốn. Từ đó, đề tài này đi sâu tìm
hiểu xem liệu đây có phải là một trong số các yếu tố tác động đến quyết định kết
hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn hay không.
43.2 Xã hội hóa
Quá trình xã hội hóa được hiểu là quá trình các cá nhân tiếp thu, học hỏi nền
văn hóa xã hội mà cá nhân đó sinh ra và lớn lên, tức là lĩnh hội những kinh nghiệm
xã hội, học những gì phải làm, những gì không được làm, học các chuẩn mực giá
trị để thích ứng được với xã hội. Quá trình này có vai trò rất quan trọng trong việc
biến một cá nhân từ một thực thể tự nhiên thành con người xã hội, góp phần quan
trọng trong việc hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách con người. Qúa
trình xã hội hóa cá nhân bao gồm những nội dung như sau:
- Giúp cá nhân tiếp thu kinh nghiệm xã hội
- Giúp cá nhân nắm vững các chuẩn mực, giá trị xã hội
- Giúp cho cá nhân tiếp thu những chuẩn mực
- Giúp các cá nhân chuẩn bị đảm nhiệm các vai trò xã hội
Khi nghiên cứu về vấn đề phụ nữ nông thôn kết hôn với người nước ngoài,
cách tiếp cận xã hội học về xã hội hóa cho phép chúng ta tìm hiểu những nội dung
về định kiến giới, những chuẩn mực được xã hội quy định cho nữ giới trong gia
đình (ví dụ như: phải có hiếu với cha mẹ, chịu khó, chịu khổ, lo cho các em,...) từ
đó xét xem quyết định này của họ có chịu ảnh hưởng của những chuẩn mực, giá trị
ấy không và nếu có thì đi phân tích xem hệ giá trị xã hội đã tác động như thế nào
đến hành vi ấy.
3.3 Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý
Tiền đề của lý thuyết này là: con người luôn hành động có chủ đích, có suy
nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách duy lý nhằm đạt được kết quả
tối đa. Con người là chủ thể ra quyết định một cách hợp lý trong điều kiện khan
hiếm nguồn lực trên cơ sở xem xét, đánh giá lợi ích kinh tế của từng cách lựa chọn.
Theo đó, cá nhân đứng trước mỗi sự lựa chọn luôn có sự cân nhắc giữa được và
mất. Cụ thể trong nghiên cứu này, việc áp dụng lý thuyết sự lựa chọn hợp lý cho
phép tìm hiểu những cái mà phụ nữ nông thôn cho là cái ”được”, họ nghĩ họ sẽ có
5những gì khi quyết định kết hôn với người Đài Loan hay Hàn Quốc, họ lựa chọn
việc kết hôn này dựa trên cơ sở gì (tình cảm hay cái gì khác?).
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, tiến hành phân tích những tài liệu liên
quan đến vấn đề này đồng thời tiến hành những phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm.
B. PHẦN NỘI DUNG
Khi xem xét các yếu tố liên quan đến một vấn đề nào đó thì bao giờ người
nghiên cứu cũng cần phải đặt cái nhìn bao quát về nhiều phía, trên nhiều khía cạnh
để có thể rút ra được những kết luận đầy đủ nhất. Khi đứng trước một sự việc, hiện
tượng nào đó, mỗi người lại có những cách giải thích, lý giải cho riêng mình. Đối
với việc phụ nữ nông thôn kết hôn với người nước ngoài mà cụ thể là với người
Đài Loan/Hàn Quốc cũng vậy, đã có rất nhiều nguyên nhân được đưa ra, mỗi
nguyên nhân ấy đều có những ý nghĩa nhất định nhưng tổng kết lại, một số yếu tố
được nhắc đi nhắc lại trong rất nhiều tài liệu liên quan bao gồm:
I. Các yếu tố khách quan
1. Các yếu tố kinh tế, nghèo đói
Các yếu tố kinh tế có xu hướng liên quan đến tất cả các khía cạnh của đời
sống con người. Xã hội ngày càng phát triển, điều kiện sống của con người ngày
càng được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên, để hưởng thụ những điều ấy thì không
phải ai cũng có thể, nhất là ở trong xã hội mà kinh tế chi phối rất nhiều thứ như xã
hội hiện nay. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra được những mặt trái của nền kinh
tế thị trường, trong đó có vấn đề về khoảng cách giàu nghèo: những người giàu thì
càng giàu lên mà những người nghào thì càng khó có cơ hội vươn lên thoát nghèo.
Cho nên ở đây, việc lấy chồng nước ngoài được xem như một biện pháp cải thiện
kinh tế gia đình. Đây là một yếu tố rất quan trọng dẫn tới quyết định kết hôn của
phụ nữ nông thôn.
6Nhiều công trình nghiên cứu việc lấy chồng nước ngoài ở Việt Nam đã cho
thấy: kinh tế gia đình khó khăn là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn
đến điều này. Theo khảo sát mới đây của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hậu Giang tại
6 xã thuộc huyện Phụng Hiệp, nơi có đông chị em kết hôn với người nước ngoài
cho thấy: nhiều chị em kết hôn không xuất phát từ tình yêu mà vì mục đích kinh tế.
Cũng tại một huyện khác của tỉnh Hậu Giang, huyện Vị Thủy, UBND xã Vĩnh
Trung cho biết: hiện toàn xã có 202 phụ nữ lấy chồng Đài Loan, 2 phụ nữ lấy
chồng Hàn Quốc. Các cô gái lấy chồng nước ngoài do hoàn cảnh khó khăn, thất
nghiệp, do ca mẹ ép buộc chiếm tới gần 80%, số còn lại tự lựa chọn kết hôn với
người nước ngoài nhưng cũng đều xuất phát từ ý muốn đổi đời, muốn có tiền nhiều
để được hưởng cuộc sống giàu sang, sung sướng.
Đề tài ”Nguyên nhân của phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long kết hôn với
người Đài Loan” của tác giả Trần Thị Kim Xuyến (Khoa Xã hội học, Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, 2005) khi nghiên cứu các tỉnh được coi là
”điểm nóng” của hiện tượng kết hôn với người Đài Loan ở Đồng bằng sông Cửu
Long (đó là Cần Thơ, An Giang, Tiền Giang, Hậu Giang và Vĩnh Long) đã chỉ ra:
theo sự đánh giá của cha mẹ cô gái kết hôn với người Đài Loan về tình hình mức
sống hộ gia đình của mình so với những người xung quanh, phần lớn gia đình họ
thuộc loại nghèo (41,1%) hoặc rất nghèo (19,8%) (Bảng 1).
Bảng 1. Mức sống các hộ - gia đình có con gái lấy chồng Đài Loan ở thời điểm
trước khi con gái lấy chồng (tính theo địa bàn khảo sát)
Rất
nghèo
Nghèo Trung
bình
Tương
đối
Khá giả Khó trả
lời
Tổng
9 29 38 9 4 89Vĩnh
Long 10,1% 32,6% 42,7% 10,1% 4,5% 100%
An 29 49 27 2 2 109
7Giang 26,6% 45% 24,8% 1,8% 1,8% 100%
33 89 35 9 1 167Cần Thơ
19,8% 53,3% 21,0% 5,4% 0,6% 100%
39 52 51 6 1 1 150Đồng
Tháp 26,0% 34,7% 34,0% 4,0% 0,7% 0,7% 100%
7 16 19 12 2 56Tiền
Giang 12,5% 28,6% 33,9% 21,4% 3,6% 100%
9 26 21 5 1 2 64Hậu
Giang 14,1% 40,6% 32,8% 7,8% 1,6% 3,1% 100%
126 216 191 43 10 4 635Tổng
19,8% 41,1% 30,1% 6,8% 1,6% 0,6% 100%
Có rất nhiều nguyên nhân để lý giải cho hiện tượng kết hôn với người nước
ngoài của phụ nữ nông thôn, nhưng chung quy lại, vì kinh tế khó khăn, vì muốn có
tiền được xem là nguyên nhân phổ biến nhất. Để có tiền, mặc dù ý thức được rằng
đây là một cách mạo hiểm, không có gì là chắc chắn nhưng họ vẫn chấp nhận.
”Hồi đó, mọi người nói lấy chồng Đài Loan ở xa bị bán, không biết đường về.. lúc
đó chưa đi làm sao biết... Với lại lúc đó hơi nghèo, mình lấy chồng ở đây không
giúp cha mẹ được... ừ thì nói thật ra là vì tiền, không phải một mình em mà ai cũng
vậy. Mục đích đi qua Đài Loan là vì muốn có tiền... vì trước ba em đi cây, làm chủ
gỗ, chở mối lúa gạo, đường mía rồi đổ nợ, làm ăn thua lỗ, nợ quá nhiều... Mẹ làm
ruộng thôi, lúc trước làm năm công, thiếu nợ nên bán hết...Ngày nào cũng bị đòi
nợ nên quyết định đi. Chết ở đâu cũng chết nên không thấy sợ nữa, hơi liều mạng.
Số mình chết ở đâu cũng vậy, thôi kệ, thí đại, thử thời, phải thì làm giàu không
phải thì chết chứ có gì đâu nên di thôi. Mình lấy chồng là vì để có được tiền, vậy
8đó, khổ quá mà”. (PVS, nữ, 22 tuổi, xã Tân Lộc – huyện Thốt Nốt, Thành phố Cần
Thơ).
”Nói chung thì chồng tôi nó không già hơn tui lắm, lớn hơn chừng 6 – 7 tuổi thôi
à, nói chung là nó cũng không có xấu gì hết trơn, thấy cũng hợp, như hồi nảy tui
nói với chị vậy đó, thằng nào cũng như thằng nấy à, kệ nó, chỉ tổ có tiền thôi à, vì
mình lấy chồng Đài Loan là mình cần tiền mà” (PVS, nữ, thị xã Gò Công – tỉnh
Tiền Giang).
Các cuộc thảo luận nhóm đã tranh luận rất sôi nổi và đưa ra nhiều nguyên
nhân của việc lấy chồng Đài Loan, nhưng nổi bật hơn cả vẫn là lý do kinh tế gia
đình. Họ cho rằng, nhiều gia đình ở địa phương nghèo từ đời này sang đời khác,
nhưng cũng có nhiều người gặp rủi ro nên trở nên nghèo. Cái nghèo được thể hiện
như: không có ruộng, học vấn thấp, không có việc làm, nợ nần chồng chất... Đồng
thời, họ cho rằng, lấy chồng Đài Loan có một khoản tiền kha khá sẽ giúp giải quyết
nhiều việc khó khăn trước mắt. Nhìn chung, hầu hết các nhóm đều khẳng định rằng
kinh tế là nguyên nhân chính yếu nhất trực tiếp dẫn đến hiện trạng lấy chồng Đài
Loan (Trần Thị Kim Xuyến, Nguyên nhân của phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long
kết hôn với người Đài Loan, Tạp chí Xã hội học số 1 (89) 2005).
”Theo tôi thì tình hình lấy chồng Đài Loan có thể nói là không giảm vì sự phát
triển kinh tế - xã hội ở ấp này hổng khéo là tụt hậu. Kinh tế chung không ổn thì kéo
theo gia đình cũng vậy đó. Có lẽ cơ hội thoát nghèo qua con đường gả Đài Loan
thì cũng còn rất lớn, không phải là nhỏ. Thí dụ, gia đình người ta ngồi tính từ đây
đến vài ba năm nữa muốn cất một cái nhà thì cũng không thể cất được, bốn năm
chục triệu thì bây giờ hy sinh một đứa để cất cái nhà chứ còn hoàn toàn rất khó...
Nó do kinh tế - xã hội” (TLN trung niên, xã Vị Trung, huyện Vị thủy, tỉnh Hậu
Giang).
Thông thường, việc kết hôn là một việc hết sức lớn lao trong cuộc đời mỗi
con người. Vì vậy, khi đứng trước ngưỡng cửa của hôn nhân, mỗi người đều có
9những suy nghĩ thật sự nghiêm túc, xem xét mọi vấn đề vì nó liên quan đến hạnh
phúc của cả đời mình. Tuy nhiên, khi một cô gái kết hôn với một người nước ngoài
thì với nhiều người, họ chỉ coi việc này chẳng khác gì so với việc đi xuất khẩu lao
động. Có lẽ vì cả hai việc này đều giống nhau ở mục đích, cùng là đi ”làm kinh tế”.
Cho nên, hình thức nào có lợi hơn thì sẽ được mọi người chấp nhận.
”Để tôi nói cho nghe nè, nghề thì không có ha, phải làm nông mà ruộng thì không
có, làm mướn thì bữa có bữa không. Có lấy chồng thì chồng cũng nghèo, không
nuôi nổi con mình, lấy đâu mà lo cho cha mẹ. Mấy đứa có ba cái chữ được một
chút muốn đi xuất khẩu lao động gì đó thì phải đóng tiền thế chân đến ba, bốn
chục triệu lận, làm sao có mà đóng? Lấy chồng Đài Loan không mất tiền mà còn
được tiên nữa, tiền sau đám cưới trước kia nhiều hơn, giờ còn không bao nhiêu
nhưng sau này nó gửi hoặc nó mang về” (TLN trung niên, xã Tân Lộc, huyện Thốt
Nốt, Thành phố Cần Thơ).
Nhiều gia đình, nhiều chị em không cần tìm hiểu hoặc không có điều kiện
tìm hiểu vị "hôn thê" của mình là người như thế nào, bao nhiêu tuổi, làm nghề gì...
sẵn sàng kết hôn với những người bị tật nguyền, những người lớn tuổi hơn cả cha
mình, chỉ cần có tiền gửi về cho gia đình là được. (Ngọc Thiện, 2005, Lấy chồng
nước ngoài - Bi kịch ở “thiên đường”, Tiền Phong).
Trên thực tế, có không hề ít các gia đình có con gái lấy chồng nước ngoài
đều khá giả lên, rất nhiều người đều khẳng định rằng những thay đổi tích cực về
cuộc sống của gia đình những người có con gái kết hôn kiểu này là một điều không
thể phủ nhận được. Điều này phù hợp với những quan sát của tác giả Nguyên Huân
(Báo Nông nghiệp Việt Nam) trong bài viết ”Về nơi nghìn người lấy chồng ngoại”
(2010) khi nói về xã Tú Sơn, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng – nơi đã
chứng kiến rất nhiều cuộc hôn nhân giữa những cô gái ở đây với những chú rể Hàn
Quốc hay Đài Loan.
10
”... màu đỏ rực của hoa phượng đã được thay thế bằng màu đỏ tươi của những
viên gạch tuy-len ốp tường hiển hiện ở hầu hết các căn nhà, con đường, ngõ ngách
của huyện miền biển này. Trong lòng chúng tôi mừng thầm vì đinh ninh bà con
ngư dân nơi đây ăn nên làm ra lắm nên nhà cửa mới lộng lẫy khang trang như
vậy.
Song, khi hỏi người dân vùng biển này về cái sự giàu có ấy họ chỉ gượng ghịu cười
trả lời qua loa rằng "nhà Uôn, nhà Đài đó". Thấy mặt chúng tôi ngơ ngác, bà
bán quán cóc đầu làng không ngần ngại xổ toẹt: “Thì những cái nhà lộng lẫy đó là
do có con gái đi lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan gửi tiền về xây chứ có gì đâu mà
phải giấu mới giếm. Uôn ở đây là tiền Hàn Quốc còn Đài nghĩa là Đài tệ (tiền của
Đài Loan), đơn giản vậy thôi”.
Chúng tôi vào thăm nhà anh Hùng khi anh đang hoàn thiện nốt ngôi nhà to nhất
nhì thôn 3, xã Tú Sơn. Anh Hùng có hai cô con gái sinh đôi thi trượt đại học năm
ngoái đều đã lấy chồng ngoại cách đây không lâu. Tỉ tê hỏi chuyện tôi được anh
cho biết, tiền xây nhà hết hơn 500 triệu đồng do hai cô con gái, một lấy chồng Hàn
Quốc một lấy chồng Đài Loan gửi về...
... có cả trăm ngàn lý do để những cô gái kia sẵn sàng lên xe hoa với những chàng
trai không hề quen biết. Tuy nhiên, đa số các cô gái chấp nhận lấy chồng xa xứ
mục đích chính vẫn không gì khác ngoài gánh nặng cơm áo, gạo tiền.
... Nói gì thì nói nhưng phải khẳng định một số xã của huyện Kiến Thụy giàu lên
không thể không kể đến những đồng tiền ngoại hối do các cô gái lấy chồng nước
ngoài gửi về. Điều này được ông Chủ tịch xã Tú Sơn Bùi Nhân Tông lấy dẫn chứng
cụ thể như sau: Trước đây thôn 5 thuộc diện nghèo nhất xã Tú Sơn, nhưng sau có
gần 100 cô gái đi lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan mà kinh tế của thôn giờ vươn lên
vị trí đầu tiên của xã, vậy không phải tiền của họ gửi về thì con ai vào đây được
nữa?”.
11
Chính vì những lợi ích kinh tế do cuộc hôn nhân này mang lại mà phần lớn
phụ nữ nông thôn khi được tìm hiểu đều đưa ra lý do này như một sự khẳng định
rằng đó là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất.
2. Thái độ của cộng đồng và gia đình
Thái độ của những người xung quanh cũng như trong gia đình có ảnh hưởng
không hề nhỏ tới quyết định của các cô gái muốn lấy chồng nước ngoài. Và trước
sự phổ biến, công khai của hiện tượng này thì một giả thuyết được đưa ra là xã hội
có thái độ chấp nhận việc kết hôn với người nước ngoài của các cô gái nông thôn.
Khi phân tích tài liệu về vấn đề này, có một điều có thể nhân thấy là có
nhữ