Nợ nước ngoài là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính mỗi quốc gia. Từ những nước nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ phát triển cao như Mỹ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng của chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Nợ nước ngoài cần phải được sử dụng hợp lý, hiệu quả và quản lý tốt, nếu không thì khủng hoảng nợ nước ngoài có thể xảy ra với bất cứ quốc gia nào tại bất cứ thời điểm nào và để lại những hậu quả nghiêm trọng. Dù là công khai hay ngấm ngầm thì cũng đã có không ít những vụ phá sản tầm cỡ quốc gia diễn ra trong suốt thời kỳ thế giới lâm vào khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ Mỹ năm 2008. Có rất nhiều lý do dẫn tới cuộc khủng hoảng toàn cầu này nhưng trong đó phải kể đến tình trạng nợ nước ngoài tràn lan ở nhiều nước. Nợ nước ngoài khó kiểm soát ở nhiều quốc gia chính là nguyên nhân khiến nền kinh tế phục hồi rất chậm chạp, mong manh và đứng trước nguy cơ tiếp tục khủng hoảng. Kinh tế thế giới vừa trải qua cơn bão khủng hoảng dữ dội nhất kể từ sau cuộc đại suy thoái 1929-1933 và đang chật vật hồi phục. Thế nhưng, sự hồi phục hiện nay của kinh tế thế giới rất mong manh, bấp bênh và không loại trừ khả năng có thể bị suy thoái trở lại bởi nhiều nguyên nhân, trong đó tình trạng nợ công tràn lan ở nhiều nước là một nguyên nhân quan trọng.
Trong những năm gần đây, sự quan tâm của thế giới đang đổ vào Hy Lạp, nơi mà núi nợ đang đè lên lưng nước này. Nó đã đẩy nền kinh tế nước này vào nguy cơ sụp đổ với tổng số nợ công lên tới 300 tỷ Euro (chiếm 124% GDP năm 2009) và mức thâm hụt ngân sách hai con số, trong khi tăng trưởng kinh tế tiếp tục âm. Hiện nay, Hy Lạp là nước có mức nợ công thuộc loại nhiều nhất tại châu Âu so với quy mô nền kinh tế và được ví như “một người bệnh đang trong thời kỳ nguy kịch”. Mức độ tín nhiệm tài chính của nước này đã bị tụt xuống hạng BBB-. Điều này đồng nghĩa với khả năng đi vay tiền từ bên ngoài trở nên khó khăn. Nếu không trả được, Hy Lạp sẽ trở thành nước bị vỡ nợ, các chủ nợ sẽ tìm cách siết nợ,
51 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6599 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các biện pháp đề xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài Luận
Đề Tài:
Nợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các biện pháp đề xuất
MỤC LỤC
Trang
Danh mục chữ viết tắt 4
Danh mục bảng biểu 5
Lời mở đầu 6
PHẦN 1: Khái niệm, phân loại và vai trò của nợ nước ngoài
Việt Nam 10
1.1. Khái niệm 10
1.2. Phân loại nợ nước ngoài 12
1.3. Vai trò của Nợ nước ngoài 14
1.4. Phương pháp xác định 15
PHẦN 2: Thực trạng về nợ nước ngoài ở Việt Nam nguyên nhân
và hạn chế của công tác quản lý nợ 16
2.1. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam 16
2.1.1. Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt Nam 16
2.1.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam 16
2.1.2.1 Tình hình chung 16
2.1.2.2 Lãi suất vay nợ của Việt Nam hiện nay 20
2.1.2.3 Cơ cấu nợ vay của Việt Nam 20
2.1.2.4 Các khoản nợ nước ngoài của việt nam một số năm gần đây 24
2.1.2.5 Hiệu quả sử dụng nợ vay 25
2.2. Tình hình quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam 28
2.2.1. Những thành tựu nổi bật của công tác quản lý nợ nước ngoài
ở Việt Nam 30
2.2.1.1 Quản lý nợ nước ngoài đã góp phần quan trọng vào phát
triển kinh tế và thu hút nguồn vốn ODA 30
2.2.1.2 Khung thể chế quản lý nợ nước ngoài đã được từng bước hoàn
thiện 31
2.2.1.3 Hệ thống tổ chức quản lý nợ nước ngoài đã hoàn thiện và
từng bước được cải thiện 31
2.2.1.4 Nâng lực cán bộ đang từng bước được nâng cao 31
2.2.2. Một số tồn tại trong vấn đề nợ nước ngoài hiện nay 32
2.2.2.1 Tồn tại trong vấn đề vĩ mô 32
2.2.2.2 Tồn tại trong các chính sách về việc quản lý nợ nước ngoài 32
2.2.2.3 Tồn tại trong việc đánh giá giám sát hiệu quả nợ nước ngoài 33
2.2.2.4 Tồn tại trong việc thống kê đúng và đủ về việc thực hiện nguồn
vốn được cấp từ nợ nước ngoài 33
2.3. Nguyên nhân 34
2.3.1. Yếu tố lịch sử 34
2.3.2. Thiếu hụt kinh nghiệm quản lý nợ 34
2.3.3. Nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý. 35
2.3.4. Thiếu hụt đối ngũ cán bộ chuyên môn 35
2.3.5. Hệ thống và quy trình kiểm định các dự án đầu tư còn yếu kém 35
2.3.6. Ứng dụng công nghệ thông tin còn yếu kém 36
PHẦN 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vay và quản lý các
khoản vay nợ nước ngoài của Việt Nam 37
3.1. Các giải pháp đảm bảo khả năng tiếp nhận nợ vay nước ngoài 37
3.1.1. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững 37
3.1.2. Lựa chọn danh mục vay nợ hợp lý 37
3.1.3. Gia tăng dự trữ ngoại hối 38
3.2. Các giải pháp làm giảm chi phí vay nợ 39
3.2.1. Chính sách tỷ giá hối đoái 39
3.2.2. Ổn định lạm phát 39
3.2.3. Gia tăng hệ số tín nhiệm quốc gia 40
3.3. Các biện pháp sử dụng vốn vay hiệu quả 40
3.3.1. Kiểm soát nợ nước ngoài 41
3.3.2. Các biện pháp nhằm sử dụng nợ nước ngoài có hiệu quả 41
3.4. Các biện pháp quản lý nợ vay nước ngoài 43
3.5. Các biện pháp hỗ trợ 45
3.5.1. Ổn định môi trường thể chế 45
3.5.2. Cải thiện môi trường đầu tư 47
3.5.3. Phát triển nội lực nguồn kinh tế 47
3.5.4. Xây dựng môi trường tài chính hiệu quả 48
KẾT LUẬN 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế
SNA Hệ thống thống kê tài khoản quốcgia
ODA Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
OECD Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển
WB Ngân hàng Thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới
JPY Đông Yên Nhật
NIB Ngân hàng đầu tư Bắc Âu
IBRD Ngân hàng quốc tế tái thiết và phát triển
IDA Hiệp hội phát triển quốc tế
IFAD Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế
NDF Quỹ phát triển Bắc Âu
NIB Ngân hàng đầu tư Bắc Âu
OPEC Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á
IFI Tổ chức tài chính quốc tế
GNI Tổng sản lượng quốc gia
XK Xuất khẩu
TC Tài Chính
NHNN Ngân hàng Nhà nước
ICOR Hệ số sử dụng vốn
NHTM Ngân hàng thương mại
FII Nguồn vốn đầu tư gián tiếp
FDI Nguồn vốn đầu tư trực tiếp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Đánh giá theo mức độ nợ của các quốc gia theo % 15
Bảng 2.1 Tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam từ 2003-2010 18
Bảng 2.2 Các chỉ tiêu về giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam 21
Bảng 2.3 Quan hệ giữa thâm hụt thương mại và nợ nước ngoài của
Việt Nam giai đoạn 2005-2009 22
Bảng 2.4 Một số chủ nợ song phương lớn của Việt Nam 24
Bảng 2.5 Nợ vay từ các tổ chức đa phương của Việt Nam 25
Lời mở đầu
Nợ nước ngoài là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính mỗi quốc gia. Từ những nước nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ phát triển cao như Mỹ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng của chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Nợ nước ngoài cần phải được sử dụng hợp lý, hiệu quả và quản lý tốt, nếu không thì khủng hoảng nợ nước ngoài có thể xảy ra với bất cứ quốc gia nào tại bất cứ thời điểm nào và để lại những hậu quả nghiêm trọng. Dù là công khai hay ngấm ngầm thì cũng đã có không ít những vụ phá sản tầm cỡ quốc gia diễn ra trong suốt thời kỳ thế giới lâm vào khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ Mỹ năm 2008. Có rất nhiều lý do dẫn tới cuộc khủng hoảng toàn cầu này nhưng trong đó phải kể đến tình trạng nợ nước ngoài tràn lan ở nhiều nước. Nợ nước ngoài khó kiểm soát ở nhiều quốc gia chính là nguyên nhân khiến nền kinh tế phục hồi rất chậm chạp, mong manh và đứng trước nguy cơ tiếp tục khủng hoảng. Kinh tế thế giới vừa trải qua cơn bão khủng hoảng dữ dội nhất kể từ sau cuộc đại suy thoái 1929-1933 và đang chật vật hồi phục. Thế nhưng, sự hồi phục hiện nay của kinh tế thế giới rất mong manh, bấp bênh và không loại trừ khả năng có thể bị suy thoái trở lại bởi nhiều nguyên nhân, trong đó tình trạng nợ công tràn lan ở nhiều nước là một nguyên nhân quan trọng.
Trong những năm gần đây, sự quan tâm của thế giới đang đổ vào Hy Lạp, nơi mà núi nợ đang đè lên lưng nước này. Nó đã đẩy nền kinh tế nước này vào nguy cơ sụp đổ với tổng số nợ công lên tới 300 tỷ Euro (chiếm 124% GDP năm 2009) và mức thâm hụt ngân sách hai con số, trong khi tăng trưởng kinh tế tiếp tục âm. Hiện nay, Hy Lạp là nước có mức nợ công thuộc loại nhiều nhất tại châu Âu so với quy mô nền kinh tế và được ví như “một người bệnh đang trong thời kỳ nguy kịch”. Mức độ tín nhiệm tài chính của nước này đã bị tụt xuống hạng BBB-. Điều này đồng nghĩa với khả năng đi vay tiền từ bên ngoài trở nên khó khăn. Nếu không trả được, Hy Lạp sẽ trở thành nước bị vỡ nợ, các chủ nợ sẽ tìm cách siết nợ, và như vậy, nền kinh tế nước này sẽ rơi vào khủng hoảng khi mà các nhà đầu tư tìm cách tháo chạy khỏi Hy Lạp. Tình trạng nợ công chồng chất không chỉ là hiện tượng đơn lẻ diễn ra ở Hy Lạp hay Băng Đảo và Đu-bai gần đây, mà đã trở thành hiện tượng khá phổ biến trên thế giới. Không riêng các nước đang phát triển mới đi vay, mà cả những nước phát triển giàu có cũng mắc nợ.
Hiện nay, Mỹ là con nợ lớn thuộc loại hàng đầu thế giới với tổng số nợ lên tới 13.000 tỷ USD, chiếm khoảng 93% GDP. Mức thâm hụt ngân sách của Mỹ năm 2010 dự kiến là 9,9%. Điều này báo hiệu núi nợ của Mỹ sẽ tăng lên tới mức xấp xỉ 100% GDP vào cuối năm nay.
Kể cả Nhật Bản, đã từng có thời người ta tưởng có thể sẽ “mua hết nước Mỹ”, vậy mà bây giờ cũng trở thành một con nợ “cỡ bự” với mức nợ tương đương với 227% GDP và thâm hụt ngân sách dự kiến 10,2 % năm 2010.
Rồi đến Trung Quốc, nước hiện được coi là chủ nợ nước ngoài lớn của Mỹ và nhiều nước khác với nguồn dự trữ quốc gia trên 2000 tỷ USD, song cũng không phải là không mắc nợ. Theo Giáo sư Victor Shih từ trường Đại học Northwestern của Mỹ, các chính quyền địa phương của Trung Quốc đã vay mượn tổng cộng trên 11 nghìn tỷ nhân dân tệ (tương đương với 1,68 nghìn tỷ USD) từ năm 2004 cho tới cuối năm 2009 và Trung Quốc có thể sẽ phải đối mặt với thâm hụt ngân sách khổng lồ, chiếm hơn 10% GDP trong năm 2010.
Ấn Độ, một nền kinh tế lớn đang lên ở châu Á cũng đang đối mặt với tình trạng nợ công nặng nề. Tỷ lệ nợ so với GDP năm 2009 lên tới 88,9% và mức thâm hụt ngân sách năm 2010 dự kiến là 6,8%. Hiện Ấn Độ bị xếp hạng tín dụng quốc gia BBB- giống như Hy Lạp.
Trong liên minh châu Âu (EU), hầu hết các nước đều đang trong tình trạng nợ nần. Ngay cả Đức, nền kinh tế mạnh nhất châu Âu, cũng đẫm mình trong nợ với mức 84,5% GDP. Nợ công của Pháp cuối năm 2009 đã lên xấp xỉ 1500 tỷ Euro, tương đương với 82,6 % GDP, mức thâm hụt ngân sách 7,6 % và dự kiến còn tiếp tục với mức 7,1% năm 2010. Tình hình của Italy lại còn đáng buồn hơn với mức nợ công lên tới 120 % GDP năm 2009 và dự kiến thâm hụt ngân sách 5,6% năm 2010, trong khi tăng trưởng kinh tế tiếp tục khó khăn (-2,3%). Một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Băng Đảo, Ai-xơ-len cũng đang lâm tình cảnh nợ nần bi đát. Các nước này đều có tỷ lệ nợ gần ngang, thậm chí có nước còn lớn hơn GDP và thâm hụt ngân sách vượt xa mức quy định (3%) của EU, trong khi triển vọng tăng trưởng kinh tế rất ảm đạm. Trường hợp Tây Ban Nha rất đáng lo ngại và nhiều chuyên gia cảnh báo rằng Tây Ban Nha có thể sẽ đi theo con đường của Hy Lạp, bởi với ngân sách bị thâm hụt ngang mức 11,4% GDP, tổng nợ công và tư tương đương 300% GDP - những con số này trầm trọng hơn của Hy Lạp rất nhiều. Trong khi đó, thất nghiệp của Tây Ban Nha cũng rất cao, tới 20% (4,5 triệu người) và nhất là hệ thống ngân hàng rất mong manh.
Việt Nam trong nền kinh tế thị trường và hội nhập cũng không tránh khỏi tình trạng trên. Trong khi tích lũy từ nội bộ nền kinh tế thông qua chi tiêu để dành của quốc gia liên tục giảm thì nợ nước ngoài liên tục tăng, nguồn để đầu tư tăng và ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt. Và đáng lo ngại hơn cả là vay nợ nhưng làm ăn kém hiệu quả và khả năng trả nợ ngày càng khó khăn hơn. Điều đó càng khiến nợ nước ngoài ở Việt Nam tăng cao và tiến tới mức nguy hiểm. Đối với Việt Nam, việc vay mượn vốn nước ngoài để đáp ứng yêu cầu tăng mức đầu tư trong nước nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong tương lai là một giải pháp hợp lý. Bởi vì Việt Nam cần nguồn lực con người và vốn cao hơn nữa để cạnh tranh trên thị trường thế giới với các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, ví dụ như sản phẩm điện tử. Mặt khác, Việt Nam vẫn là nền kinh tế đang phát triển nên có thu nhập tương đối thấp cần phải đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng và con người để nâng tỷ lệ giá trị gia tăng trong dài hạn với dự kiến chỉ tiêu tăng trưởng GDP bình quân 7,5%-8,5%/năm trong giai đoạn 2011-2015. Song song với đó, Việt Nam đang cần đầu tư vào các lĩnh vực như bệnh viện, trường học, dạy nghề, phát triển hạ tầng giao thông, giảm bớt chi phí dịch vụ tiện ích và viễn thông, củng cố môi trường kinh doanh và tăng cường trình độ các trung tâm nghiên cứu phát triển, xây dựng các công trình phúc lợi nhằm nâng cao đời sống nhân dân hơn nữa và làm cho bộ mặt kinh tế đất nước ngày càng thay đổi tốt hơn. Nợ nước ngoài đang làm nóng nghị trường Quốc hội, mà trong đó gây tranh cãi nhiều nhất là quy mô, tính an toàn và tài trợ nợ nước ngoài.
Do đó nhóm 14 chọn chủ đề :
“ Nợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các biện pháp đề xuất .”
Nội dung bài gồm 3 phần chính :
P Phần 1: Khái niệm, phân loại và vai trò nợ nước ngoài của Việt Nam
P Phần 2: Thực trạng nợ nước ngoài và công tác quản lý về vay nợ của Việt Nam.
P Phần 3: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả vay nợ và quản lý nợ nước ngoài.
Mặc dù cũng rất cố gắng để thực hiện đề tài song do còn là sinh viên nên kiến thức và lý luận vẫn còn yếu do đó bài làm không sao tránh khỏi những lỗi sai và sự thiếu sót. Nhóm 14 rất mong nhận được sự góp ý chân thành của cô giáo hướng dẫn để đề tài đem lại nhiều lợi ích trong thực tế hơn. Nhóm em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm thực hiện : Nhóm 14
PHẦNN 1: KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM
1.1. Khái niệm
Nợ nước ngoài là một khái niệm rộng lớn, chứa đựng nhiều yếu tố khác nhau. Do đó để hiểu được khái niệm nợ nước ngoài, chúng ta cần phải tìm hiểu một số khái niệm cơ bản sau:
Nợ: là lượng tiền mà một công ty hoặc một cá nhân nợ một tổ chức hoặc một cá nhân khác. Nợ phát sinh từ việc vay tiền để mua hàng hoá, dịch vụ và các tài sản tài chính khác. Một khoản nợ được tạo ra khi người cho vay đồng ý cho người đi vay một lượng tài sản nhất định.
Nợ xấu: là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi lại được và bị xoá sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ.Với hai khái niệm cơ bản trên chúng ta có thể đi vào tìm hiểu thế nào là nợ nước ngoài? Vậy thì một câu hỏi đặt ra lúc này là tại sao chúng ta phải tìm hiểu khía cạnh nợ xấu trong nợ nước ngoài. Lịch sử kinh tế thế giới là một minh chứng hùng hồn nhất cho tấm thảm kịch nợ không an toàn, đó là các cuộc khủng hoảng nợ xảy ra ở một số khu vực trên thế giới. Hơn nữa, trong những năm vừa qua thế giới đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu như cuộc khủng hoảng nợ công tại các nước Châu Âu, đặc biệt là cuộc khủng hoảng nợ tại Hy Lạp. Theo nhận định của nhiều chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực kinh tế, năm 2012 là một năm đầy những khó khăn và thử thách cho kinh tế thế giới do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, trong đó khủng hoảng nợ là một bộ phận cấu thành khủng hoảng kinh tế.
Nợ Chính phủ (hay còn gọi là nợ công hay nợ quốc gia) là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương tới địa phương đi vay. Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách Nhà nước và thường được đo lường bằng phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội GDP.
Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.
Ta có các quan niệm về nợ nước ngoài cụ thể như sau :
Theo khoản 8 điều 2 quy chế vay và trả nợ nước ngoài (Ban hành kèm theo Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ) thì: “Nợ nước ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ hiện hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả nợ gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài tại Việt Nam. Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân”. Như vậy, theo cách hiểu này nợ nước ngoài là tất cả các khoản vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt Nam đối với nước ngoài và không bao gồm nợ của các thể nhân (nợ của cá nhân và hộ gia đình).
Trong cuốn Thống kê nợ nước ngoài : Hướng dẫn tập hợp và sử dụng do nhóm công tác liên ngành của IMF thì khái niệm nợ nước ngoài được hiểu như sau: “Tổng nợ nước ngoài tại bất kỳ thời điểm nào là số dư nợ của các công nợ thường xuyên thực tế, không phải công nợ bất thường, đòi hỏi bên nợ phải thanh toán gốc và/hoặc lãi tại một (số) thời điểm trong tương lai, do đối tượng cư trú tại một nền kinh tế nợ và đối tượng không cư trú”. Theo khái niệm này, khái niệm nợ nước ngoài không tách rời khái niệm đối tượng cư trú. Như vậy xét về bản chất không có sự khác biệt đáng kể trong định nghĩa nợ nước ngoài của quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên định nghĩa về nợ nước ngoài của quốc tế rõ ràng hơn. Khái niệm nợ nước ngoài của quốc tế về cơ bản mang ý nghĩa thống kê và nhất quán với SNA. Để đảm bảo tính nhất quán trong cách phân loại nợ nước ngoài, trong phần dưới đây chúng tôi sử dụng phần định nghĩa chuẩn quốc tế về nợ nước ngoài.
1.2. Phân loại nợ nước ngoài
Việc phân loại nợ nước ngoài có một vai trò quan trọng trong việc công tác theo dõi, đánh giá vàquản lý nợ có hiệu quả.
Phân loại theo chủ thể đi vay gồm: nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh và nợ tư nhân.
Nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh
Nợ công được định nghĩa là các nghĩa vụ nợ của các khu vực công và bao gồm nợ của khu vực công cùng với nợ của khu vực tư nhân được khu vực công bảo lãnh.
Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền bảo lãnh được xác định là các công nợ nước ngoài của khu vực tư nhân mà dịch vụ trả nợ được bảo lãnh theo hợp đồng bởi một đối tượng thuộc khu vực công cư trú tại cùng một nền kinh tế với bên nợ đó.
Nợ tư nhân
Loại nợ này bao gồm nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được khu vực công của nền kinh tế đó bảo lãnh theo hợp đồng. Về bản chất đây là các khoản nợ do khu vực tư nhân tự vay, tự trả.
Phân loại theo thời hạn vay gồm: nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
Nợ ngắn hạn
Nợ ngắn hạn là loại nợ có thời gian đáo hạn từ một năm trở xuống. Vì thời gian đáo hạn ngắn, khối lượng thường không đáng kể, nợ ngắn hạn thường không thuộc đối tượng quản lý một cách chặt chẽ như nợ dài hạn. Tuy nhiên nếu nợ ngắn hạn không trả được sẽ gây mất ổn định cho hệ thống ngân hàng. Đặc biệt khi tỷ trọng nợ ngắn hạn trong tổng nợ có xu hướng tăng phải hết sức thận trọng vì luồng vốn rút ra đột ngột có thể gây bất ổn cho nền tài chính quốc gia.
Nợ dài hạn
Nợ dài hạn là những công nợ có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng hoặc đã gia hạn kéo dài trên một năm tính từ ngày ký kết vay nợ cho tới ngày đến hạn khoản thanh toán cuối cùng. Nợ dài hạn là loại nợ được quan tâm quản lý nhiều hơn do khả năng tác động lớn đến nền tài chính quốc gia.
Phân loại theo loại hình vay gồm: vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay thương mại.
Vay hỗ trợ phát triển chính thức ODA
Theo định nghĩa của OECD, hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các chuyển khoản song phương (giữa các Chính phủ) hoặc đa phương (từ các tổ chức quốc tế cho Chính phủ), trong đó ít nhất 25% tổng giá trị chuyển khoản là cho không. Tính ưu đãi của vay hỗ trợ phát triển chính thức. Vay hỗ trợ phát triển chính thức là loại nợ có nhiều điều kiện ưu đãi, ưu đãi về lãi suất, về thời gian trả nợ và thời gian ân hạn. Lãi suất của vay hỗ trợ phát triển chính thức thấp hơn nhiều so với vay thương mại. Thời gian cho vay hỗ trợ phát triển chính thức dài (có thể từ 10, 15 hay 20 năm) và thời gian ân hạn dài, do vậy các nước đang phát triển thường hướng tới và tận dụng tối đa nguồn vốn này cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, vay hỗ trợ phát triển chính thức cũng có những mặt trái của nó. Tính ưu đãi của vay hỗ trợ phát triển chính thức rất rõ rệt, bên cạnh đó, việc vay nợ hỗ trợ phát triển chính thức đôi khi kèm theo những điều kiện ràng buộc khiến cái giá phải trả tăng lên đáng kể.
Vay thương mại
Khác với vay hỗ trợ phát triển chính thức, vay thương mại không có ưu đãi cả về lãi suất và thời gian ân hạn, lãi suất vay thương mại là lãi suất thị trường tài chính quốc tế và thường thay đổi theo lãi suất thị trường. Chính vì vậy, vay thương mại thường có giá khá cao và chứa đựng nhiều rủi ro. Việc vay thương mại của Chính phủ phải được cân nhắc hết sức thận trọng và chi quyết định vay khi không còn cách nào khác.
Phân loại nợ theo chủ thể cho vay gồm : nợ đa phương và nợ song phương.
Nợ đa phương: đến chủ yếu từ các cơ quan của Liên hợp quốc, WB, IMF, các ngân hàng phát triển trong khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC và liên chính phủ.
Nợ song phương: đến từ Chính phủ một nước như các nước thuộc tổ chức OECD và các nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một Chính phủ duy nhất dưới dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
1.3. Vai trò của Nợ nước ngoài
- Nợ nước ngoài tạo nguồn vốn bổ sung cho quá trình phát triển và tăng trưởng phát triển kinh tế, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc gia.
- Góp phần hỗ trợ cho các nước vay nợ tiếp thu được công nghệ tiên tiến, học hỏi được kinh nghiệm quản lý của các nhà tài trợ nước ngoài.
- Tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, góp phần thu hút , mở rộng các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế đất nước.
- Góp phần chuyển đổi, hoàn thiện cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa.
Tuy nhiên có thể gây ra hạn chế nếu như ta không quản lý tốt: có thể gây tình trạng nợ lớn, khó trả, dễ dẫn đến khủng hoảng nợ; dẫn đến sự phụ thuộc vào các chủ nợ vì các khoản nợ thường gắn với các điều kiện; có thể trở thành bãi rác công nghệ của thế giới; dễ xảy ra tình trạng tham nhũng, hối lộ…
1.4. Phương pháp xác định
Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá mức nợ nước ngoài là:
- Tổng số nợ: tính theo giá trị tuyệt đố