Vào thời mình, F.Engen đã từng nói: “ Một dân tộc đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể có tư duy lý luận”, nhưng tu duy lý luận ấy “ cần phải được hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước ” vì “ triết học là sự tổng kết lịch sử tư duy ” (Hêghen). Mặt khác vì lịch sử phát triển của tư duy được tổng kết trong lịch sử triết học, nên chính lịch sử triết học là cơ sở để hình thành phép biện chứng.
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại triết học cổ điển Đức vì vậy, trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành chủ nghĩa Mác – nguồn gốc triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp) Triết học Cantơ khởi xướng một phong trào lưu triết học mới – triết học duy tâm phê phán tiên nghiệm để tiếp đó, Phíchtơ Seu – ing tiếp tục tìm tòi mở rộng, đến Hêghen nó phát triển thành một hệ thống triết học duy tâm biện chứng và Phoiơ bắc đã kết thúc triết học cổ điển Đức với chủ nghĩa duy vật nhân bản của mình. Triết học Cantơ là một hiện tượng hết sức phức tạp. Cantơ là người đầu tiên có ý đồ và đã được thực hiện ý đồ tổng kết toàn bộ tri thức Triết học trong lịch sử tư tưởng loài người. Trên tinh thần phê phán, Cantơ đã phê phán các hệ thống triết học trước đó, gạn lọc kế thừa và phát triển những yếu tố mà ông cho là đúng giá trị, từ đó xây dựng một hệ thống triết học riêng theo một mẫu mực mới – Triết học vạn năng.
47 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4373 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung cơ bản của triết học I.Kant, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. Lời nói đầu:
1. Lý do chọn đề tài
2. Tài liệu tham khảo
B. Nội dung
I. Khái quát về tiền đề ra đời và đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
1.1. Tiền đề xuất hiện triết học cổ điển Đức.
1.2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
II. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của I.kant.
2.1. Thời kỳ tiền phê phán và những tư tưởng triết học khoa học tự nhiên.
2.2. Thời kỳ phê phán và những quan điểm triết học cơ bản.
2.2.1. Bước ngoặt trong quan điểm triết học và thế giới quan.
2.2.2. Bản chất, nhiệm vụ, chức năng của triết học
III. Nội dung cơ bản của triết học cantơ
3.1. Triết học nhận thức:
3.1.1. Thuyết hai thế giới và quan niệm về nhận thức.
3.1.1.1. Thuyết hai thế giới:
3.1.1.2. Quan niệm về nhận thức.Kinh nghiệm và tiên nghiệm.
3.1.2 Học thuyết về tri thức
3.1.3 Trực giác cảm tính. Khả năng phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong
toán học.
3.1.4 Giác tính phân tích (hay phân tích tiên nghiệm). Khả năng nhận thức
của khoa học tự nhiên lý thuyết.
3.1.5. Lý tính (hay biện chứng tiên nghiệm). Về khả năng của siêu hình học.
3.2 Triết học thực tiễn.
3.2.1 Đạo đức học của Cantơ.
3.2.2. Quan niệm về lịch sử, xã hội, pháp quyền.
3.2.3. Mỹ học và quan điểm triết học về con người và tương lai loài người
C. Kết luận.
A. LỜI NÓI ĐẦU
Vào thời mình, F.Engen đã từng nói: “ Một dân tộc đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể có tư duy lý luận”, nhưng tu duy lý luận ấy “ cần phải được hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước ” vì “ triết học là sự tổng kết lịch sử tư duy ” (Hêghen). Mặt khác vì lịch sử phát triển của tư duy được tổng kết trong lịch sử triết học, nên chính lịch sử triết học là cơ sở để hình thành phép biện chứng.
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại triết học cổ điển Đức vì vậy, trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành chủ nghĩa Mác – nguồn gốc triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp) Triết học Cantơ khởi xướng một phong trào lưu triết học mới – triết học duy tâm phê phán tiên nghiệm để tiếp đó, Phíchtơ Seu – ing tiếp tục tìm tòi mở rộng, đến Hêghen nó phát triển thành một hệ thống triết học duy tâm biện chứng và Phoiơ bắc đã kết thúc triết học cổ điển Đức với chủ nghĩa duy vật nhân bản của mình. Triết học Cantơ là một hiện tượng hết sức phức tạp. Cantơ là người đầu tiên có ý đồ và đã được thực hiện ý đồ tổng kết toàn bộ tri thức Triết học trong lịch sử tư tưởng loài người. Trên tinh thần phê phán, Cantơ đã phê phán các hệ thống triết học trước đó, gạn lọc kế thừa và phát triển những yếu tố mà ông cho là đúng giá trị, từ đó xây dựng một hệ thống triết học riêng theo một mẫu mực mới – Triết học vạn năng.
1. Lý do chọn đề tài:
Imanuen Cantơ (Imanuel Kant) là một trong những nhà triết học vĩ đại của lịch sử tư duy phương Tây trước Mác. Triết học Cantơ “là nền tảng và điểm xuất phát của triết học Đức hiện đại, những hạn chế trong triết học của ông không làm lu mờ công lao đó của triết học triết học Cantơ”
Triết học Cantơ có vị trí quan trọng trong triết học cổ điển Đức. Cantơ có vị trí quan trọng trong triết học trong triết học cổ điển Đức. Triết học Cantơ đi vào rất nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh, nêu lên những lý tưởng mới lạ, trừu tượng và hết sức khó hiểu. Chính vì vậy cho đến nay dù đã nhiều công trình nghiên cứu về Cantơ, song không phải những công trình đó đã đi sâu cặn kẽ vào hết các ý tưởng của Cantơ không phải ai cũng hiểu nó một cách hoàn toàn giống nhau.
Tìm hiểu về triết học của Cantơ em muốn đi sâu nghiên cứu một cách khái quát về hệ thống triết học của Cantơ, nghiên cứu về triết học thực tiễn, triết học nhận thức về cuộc đời và sự nghiệp của ông.
Do quá trình làm bài còn nhiều thiếu sót, cũng như kiến thức và tài liệu chưa được đầy đủ em mong được sự góp ý và chỉnh sửa và bổ sung của Thầy để bài viết được thực sự hoàn chỉnh hơn.
.
B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC.
1.1. Tiền đề xuất hiện triết học cổ điển Đức.
Vào cuối thế kỷ XVIII, Tây Âu đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội mới, khẳng định phương thức sản xuất TBCN, đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống trị.Các cuộc cách mạng xã hội thế kỷ XVII - XVIII mở đường cho sự phát triển các tư tưởng xã hội tiến bộ, đẩy đến cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794).
Cách mạng công nghiệp Anh khẳng định sức mạnh của con người trong nhận thức thế giới, cùng với cách mạng tư sản Pháp thể hiện khả năng cải tạo thế giới, làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của cách mạng công nghiệp.
Hai cuộc cách mạng tiêu biểu đó ảnh hưởng rộng lớn đến phong trào giải phóng ở các nước châu Âu chống chủ nghĩa phong kiến, phát triển hệ tư tưởng tư sản - hệ tư tưởng mới và tiến bộ trong lịch sử. Các nhà tư tưởng tư sản đòi hỏi phải trả lại cho con người những cái mà hệ tư tưởng phong kiến đang phủ nhận. Quyền tự do, bình đẳng, quyền sở hữu riêng của mỗi cá nhân và quyền mưu cầu hạnh phúc. Hệ tư tưởng tư sản tuyên bố: con người là thực thể tối cao, con người phải vươn tới trí tuệ và tự do, phải thực hiện tiến bộ xã hội và hạnh phúc cho con người.
Tuy nhiên về mặt chính trị, chủ nghĩa phong kiến chưa bị tiêu vong hoàn toàn. Ở những nước mà kinh tế TBCN chưa thể thực hiện việc cải tạo cách mạng tư sản, lực lượng phong kiến vẫn nắm chính quyền và không chịu phân quyền cho giai cấp còn non yếu. Sự phục hồi chế độ quân chủ nửa phong kiến Buốcbông ở Pháp, Hội nghị viên ở Áo thống nhất các lực lượng quân chủ - phong kiến toàn châu Âu. Chứng tỏ lực lượng phong kiến vẫn đang còn mạnh và đang chuẩn bị phản công lại giai cấp tư sản.
Giai cấp tư sản cảm nhận được khả năng thất bại của mình không chỉ từ sự phản công của thế lực phong kiến mà cả từ phía quần chúng bị áp bức, những người mà sự khẳng định của CNTB cang làm cho đời sống của họ tồi tệ hơn. Ngay từ những cuộc cách mạng tư sản trước đó trong “đẳng cấp thứ ba” này xuất hiện những mâu thuẫn và giờ đây chúng trở thành mâu thuẫn đối kháng.
Tình hình đó dẫn đến trong hệ tư tưởng tư sản khuynh hướng thoả hiệp với các lực lượng phong kiến lại tăng lên, các thể chế phong kiến đến lượt mình lại thích nghi với trật tự tư sản và trong phạm vi đáng kể được tưu sản hoá. Những mâu thuẫn và thoả hiệp có biểu hiện rõ nhất ở nước Đức, nơi mà có sự phát triển của CNTB bị cản trở bởi điều kiện kinh tế và chính trị của nó.
Trong thời kỳ đó, nếu nước Anh nhờ cách mạng tư sản và bước ngoặt công nghiệp mà trở thành quốc gia tư bản lớn mạnh nhất, và ở Pháp nhờ kết quả của cách mạng tư sản Pháp 1789, giai cấp tư sản đã tiêu diệt chủ nghĩa phong kiến, tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa thì ở nước Đức hãy còn là một nước nửa phong kiến bị phân hoá cả về kinh tế lẫn chính trị. Những tàn tích của chế độ nông nô, chế độ phường hội, chúa đất, sự tồn tại của nhiều quốc gia nhỏ bé phụ thuộc lẫn nhau với các thể chế chính trị phản động..., không chỉ kìm hãm sự phát triển mà còn làm tăng thêm mức độ lạc hậu của nước Đức so với các nước đã phát triển quan hệ TBCN.
F. Enghen nhận xét rằng: đó là “thời kỳ nhục nhã về mặt chính trị và xã hội”... “Mọi thứ đều nát bét lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn tới một tia hy vọng chuyển biến tốt lên vì dân tộc, thậm chí không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi”.
Nhưng đồng thời Enghen cũng viết rằng “thời kỳ nhục nhã” đó lại mang một nét đặc biệt rất đáng tự hào: Đó là thời kỳ vĩ đại trong lịch sử văn hoá, nghệ thuật và triết học Đức, mỗi tác phẩm xuất chúng của thời đại đó đều thấm đượm tinh thần phê phán, phản kháng, chống lại chế độ xã hội đương thời. Tinh thần đó tràn đầy trong các tác phẩm văn học nghệ thuật, triết học của: G.G.Heeđe (1744 - 1803), G.F.Lêxinh (1729 - 1791), G.F.Sinlơ (1759 - 1805), I.F.G.Phichtơ (1762 - 1814), S.V.Selling (1775 - 1854), G.V.F.Hêghen (1730 - 1831), Lútvích Phoiơbắc (1804 - 1872)... các đại biểu lỗi lạc của triết học cổ điển Đức.
ở Đức cũng như ở Pháp, cách mạng đã chuẩn bị tư tưởng cho cách mạng tư sản. Nhưng khác với các nhà tư tưởng Pháp, các nhà triết học Đức không đồng thời là các nhà hoạt động cách mạng. Không như P.H.Hônbach (1723 - 1789), R.Điđirô và các nhà hoạt động khác ở thời kỳ khai sáng, các nhà triết học Đức là những nhà duy tâm. Điều đó được phản ánh trong sự bất lực tiến hành một cuộc cách mạng chống lại trật tự phong kiến, và cuối cùng thể hiện ở sự thoả hiệp của họ. Các học thuyết triết học duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức không thể làm tiền đề cho sự cải tạo tư sản nước Đức, theo mong muốn mà tuyên ngôn của họ đã nêu, tự do, trí tuệ, hạnh phúc và quyền con người.
Mác gọi triết học Cantơ là học thuyết Đức của cách mạng tư sản Pháp. Định nghĩa đó cũng hoàn toàn đúng với triết học Phíchtơ, Sêling, Hêghen.
Học thuyết của các nhà triết học Đức về sự phát triển đã gián tiếp hoặc trực tiếp chống lại các lực lượng phong kiến phản động. V.I.Lênin viết: “lòng tin của Hêghen vào lý tính của con người và vào quyền lợi của con người và nguyên lý cơ bản của triết học. Hêghen cho rằng trong thế giới luôn diễn ra một quá trình liên tiếp biến hoá và phát triển..., ngay cả cuộc đấu tranh chống hiện trạng, cuộc đấu tranh chống bất công đang tồn tại và chống điều ác tung hoành cũng bắt rễ từ quy luật phổ biến là sự phát triển không ngừng”.
Song các học thuyết đó không biến thành cách mạng được, nó duy tâm và yếu hèn. Tính chất duy tâm và tinh thần yếu hèn đó đã dẫn đến những hạn chế trong triết học cổ điển Đức.
Hạn chế của nnó là ở chỗ, các nhà triết học Đức hiểu sự phát triển như một quá trình tinh thần, một quá trình tự thức tỉnh và sự phát triển của lý tính. Cách hiểu đó đã xóa nhoà bản chất vật chất của sự cải tạo xã hội hiện thực và về lý thuyết nó biện hộ cho sự thoả hiệp chính trị với các thế lực phong kiến của giai cấp tư sản.
Vấn đề dặt ra là tại sao các nhà duy tâm tư sản yếu hèn trong điều kiện kinh tế - xã hội thấp kém của nước Đức lại làm nên những thành tựu vĩ đại trong triết học.
Lịch sử tư tưởng chứng minh rằng, các học thuyết tư tưởng tiến bộ có thể nảy sinh trong lòng một nước có trình độ kinh tế lạc hậu hơn nếu biết tiếp thu thành tựu mọi mặt của các nước tiến bộ khác.
ở Pháp vào thế kỷ XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn ở Anh, song lại hình thành chủ nghĩa duy vật: Hônbach, R.Điđro... Chính vì chủ nghĩa duy vật Pháp dựa trên những thành tựu của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII. ở Đức tình hình cũng tương tự. Triết học cổ điển Đức dựa trên những thành tựu triết học của các nước phát triển châu Âu, nó tiếp thu được tư tưởng giải phóng tư tưởng cách mạng của các nhà duy vật cách mạng Pháp.
Những tiền đề cho sự phát triển thế giới quan biện chứng đối với lịch sử nhân loại và sự khái quát lý thuyết phép biện chứng của các nhà duy tâm Đức là: bước ngoặt kinh tế - xã hội có tính chất thời đại của Anh, bước ngoặt tư tưởng xã hội có tính lịch sử thế giới của cách mạng tư sản Pháp, sự kế thừa truyền thống triết học biện chứng Đức và đặc biệt là những thành tựu của khoa học tự nhiên.
Những bậc tiền bối của triết học cổ điển Đức là nhà triết học - toán học Pháp R.Điđro, nhà vật lý học Anh I.Niutơn, C.Vônphơ... Các học thuyết của họ chứa đựng những tư tưởng biện chứng sâu sắc.
Khoa học tự nhiên lúc này với những phát minh xuất sắc đã vạch rõ tính biện chứng của quá trình tự nhiên, thúc đẩy việc xây dựng phép biện chứng.
Những thành tựu đó phản ánh vào trong tư tưởng, trong những học thuyết của các nhà triết học cổ điển Đức và là những tiền đề cho những tư tưởng biện chứng thiên tài của họ. Những thành tựu đó chứng tỏ khoa học tự nhiên đã chín muồi cho sự tổng kết biện chứng, nó cần xây dựng một phương pháp tư duy và khảo sát mới - phương pháp biện chứng để có thể phản ánh đầy đủ những quy luật tự nhiên khách quan. Nếu ở thế kỷ XVII những nhà khoa học bắt đầu từ Bêcơn, Galilê, xây dựng một cách tự phát phương pháp siêu hình cho nhận thức khoa học thì ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các nhà triết học Đức đã bắt đầu xây dựng phương pháp biện chứng cho khoa học. Nhưng sự thực hiển nhiên đó trong triết học cổ điển Đức chưa tiến hành triệt để, nó vẫn là triết học đầy mâu thuẫn trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm xa lạ với tinh thần duy vật càng xa lạ với biện chứng duy vật khoa học.
1.2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
Thành tựu và cống hiến.
Tuy có những hạn chế trong lĩnh vực chính trị - xã hội nhưng thành tựu của triết học cổ điển Đức thật là vĩ đại.
Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình lịch sử nhân loại, nó đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người. Khắc phục triết học truyền thống phương Tây. Nó coi con người là chủ thể hoạt động như là vấn đề nền tảng, xuất phát điểm của một vấn đề triết học.
Kế tục tư tưởng triết học cổ đại (Xôcrat cho triết học là sự tự ý thức của con người về chính bản thân mình) và phục hưng (coi con người là trung tâm). Cantơ lần đầu tiên hiểu con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của mình, khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận. Hêghen phát triển thêm tư tưởng này và coi bản thân lịch sử phươn thức tồn tại của con người, mỗi cá nhân hoàn tàon làm chủ vận mệnh của mình. Ông khẳng định: con người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất là định vì vậy nó mang bản chất xã hội.
Trước những thành tựu khổng lồ của kinh tế - xã hội, khoa học - văn hoá. Các nhà triết học cổ điển Đức từ Cantơ đến Hêghen đều đề cao sức mạnh trí tuệ và khả năng hoạt động cảu con người. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh sức mạnh của con người họ đã rơi vào cực đoan, họ đã thần thánh hoá con người, coi con người là chúa tể tự nhiên, bản thân giới tự nhiên nhiều chỗ cũng được họ luận giải như kết quả hoạt động của con người.
Tuy vậy phải thấy một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển Đức là nó khẳng định rằng tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính mình tạo ra, nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân loại cũng như toàn bộ mối quan hệ con người - tự nhiên như một quá trình phát triển biện chứng.
Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, lôgic biện chứng, học thuyết về các quá trình phát triển, mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả cá tìm tòi của họ đó là phép biện chứng.
Với cách nhìn tổng quát và phương pháp biện chứng, các nhà triết học cổ điển Đức có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đã đạt được. Tiếp thu tinh hoa của siêu hình học thế kỷ XVIII trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ thống hoá toàn bộ tri thức loài người, Cantơ và Hêghen có ý đồ xây dựng một hệ thống triết học vạn năng làm nền tảng cho thế giới quan của con người, khôi phục lại các quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học.
Phải nói rằng: triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển ở phương Tây, đồng thời nó ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại.
Mặt hạn chế:
Hạn chế chung nhất trong thế giới quan của các nhà triết học cổ điển Đức thể hiện rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng - khoa học về tư tưởng với tính bảo thủ về lập trường chính trị - xã hội hầu hết các nhà triết học thời kỳ này đều xây dựng được hệ thống triết học chứa đựng những tư tưởng khoa học lớn có tính vạch thời đại, đặc biệt là triết học Cantơ và Hêghen. Nhưng họ lại không dám tiến hành, thực hiện những cuộc cải cách, bảo vệ chính thể Nhà nước Phổ phong kiến.
Chủ nghĩa duy tâm thần bí, phía trước và bên cạnh các nhà triết học cổ điển Đức là một dòng triết học duy vật, đặc biệt là tư tưởng duy vật của các nhà triết học khai sáng. Song các nhà triết học cổ điển Đức thấy rằng: từ quan điểm duy vật, người ta không thể giải thích được thế giới. Bản chất của thế giới theo họ là tinh thần, do vậy chỉ có thể giải quyết được những vấn đề cảu thế giới bằng tinh thần. Họ đã từ thế giới tinh thần xây dựng nên những hệ thống triết học duy tâm, thần bí.
Triết học trừu tượng tách rời hiện thực, triết học cổ điển Đức đưa ra được những tư tưởng tiến bộ, chống chế độ xã hội cũ nhưng đó chỉ là những tư tưởng, nó không đi vào chính trị xã hội và hoạt động cách mạng mà chỉ là những hệ thống triết lý trừu tượng ở bên trên.
Nếu các nhà tư tưởng pháp tiến hành cách mạng trong thực tiễn, công khai chống lại Nhà nước và giáo hội thì các nhà triết học cổ điển Đức chỉ suy nghĩ về nó trong tư tưởng, không giám công khai chống lại thực tại đó. Họ là các giáo sư chính thức trong các trường Đại học của vương quốc Phổ, do sợ hãi hiện thực cách mạng, thoả hiệp với giai cấp tư sản, tư tưởng cách mạng của họ đã phải phủ ngoài triết học cảu mình một lớp vỏ thần bí duy tâm tự biện, nặng nề, xa rời hiện thực.
II. VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA IMANUEN CANTO.
I.kant là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức. Ông sinh ngày 22 - 04 - 1724 và lớn lên trong một gia đình trung lưu gốc Scốtlen tại Kenítbec, một thành phố cổ vùng Đông - Bắc nước Phổ trước đây. Mùa thu năm 1740 ông vào học khoa triết học trường đại học Kenítbec. Ở đây ông được trang bị không chỉ triết học mà cả khoa học tự nhiên. Ngay từ những năm trong trường đại học ông đã rất quan tâm và có năng khiếu về các môn toán học và vật lý học và cơ học, vũ trụ học...
Năm 1770, ông trở thành giáo sư và là Giám đốc trường Đại học Kennitbéc. Năm 1775, ông nhận học viện Tiến sỹ triết học với luận văn: “Lịch sử tự nhiên và lý thuyết về thiên hà”.
Cantơ không hề ra khỏi thành phố quê hương quá 60 dặm và suốt đời độc thân. ông mất ngày 12 tháng 4 năm 1804.
Ở trường đại học Kenitbéc, Cantơ giảng một loạt các môn học: Siêu hình học (triết học) và lôgíc học, toán học và cơ học, vật lý học và địa chất học, nhân loại học và lịch sử tự nhiên đại cương. Ông còn giảng cả vũ trụ học, địa vật lý, nhân chủng học. Cũng ở đây, Cantơ đã tập trung toàn bộ sức lực và thời gian để thực hiện nhiệm vụ mà cả cuộc đời ông đã dặt ra cho mình là xây dựng một hệ thống triết học mới. Nhiều công trình khao học tự nhiên và triết học của ông đã ra đời, nâng ông lên vị trí một trong những học giả uyên bác nhất thời đó. Những học thuyết của ông thống trị tư tưởng khao học và triết học tư sản TK XIX. Ông đã để lại cho nhân loại một trong những hệ thống triết học độc đáo và sâu sắc nhất.
Quá trình phát triển triết học của Cantơ diễn ra qua hai thời kỳ.
Thời kỳ 1: Từ năm 1770 trở về trước.
Thời kỳ 2: Từ năm 1770 đến cuối đời.
Bởi nhiệm vụ triết học trong thời kỳ 2 do Cantơ đặt ra là phê phán (các hệ thống triết học trước đó) nên thời kỳ này được gọi là thời kỳ phê phán. Còn thời kỳ 1, tư tưởng phê phán chưa rõ ràng nên được gọi là thời kỳ tiền phê phán.
2.1. Thời kỳ tiền phê phán và những tư tưởng triết học khoa học tự nhiên.
Thời kỳ 1, Cantơ đã quan tâm đến nhiều lĩnh vực mà ông đang giảng dạy và nghiên cứu trong trường Đại học nhưng chủ yếu tập trung vào triết học tự nhiên. Nghiên cứu những vấn đề trong lĩnh vực triết học tự nhiên. Cantơ xuất phát từ niềm tin cho rằng: Triết học với tư cách là một khoa học lý thuyết tự biện có thể lý giải được mà không cần đến kinh nghiệm.Thời kỳ này, với những thành công trong khoa học ông là người lạc quan, tin tưởng vào khả năng nhận thức thế giới của con người. Trong thời kỳ này Cantơ viết một khối lượng lớn các công trình về triết học, khoa học tự nhiên. Đặc điểm rõ rệt trong các công trình này là những tư tưởng triết học và khoa học tự nhiên gắn bó chặt chẽ với nhau. Ở nhiều ngành khoa học tự nhiên, nơi mà Cantơ bỏ công nghiên cứu, ông đều đề xuất được những ý tưởng có giá trị.
Trong vật lý học, khi phát triển các tư tưởng về sự vận động, về lực hấp dẫn của các nhà toán học, vật lý học và