Từ nhiều năm nay hoạt động đầu tư theo dự án đã đóng vai trò quan trọng trong việc tái tạo duy trì năng lực sản xuất,phát triển cơ sở hạ tầng của xã hội nói chung và của doanh nghiệp nói riêng.Thực tế cho thấy có nhiều phương pháp để huy động vốn cho đầu tư phát triển cũng như cho hoạt động sản xuất kinh doanh như:vốn cấp phát từ ngân sách,vốn cổ phần bán công trái,và một số công cụ nợ khác.Tuy nhiên với ưu thế là nguồn vốn lớn,thời gian giải ngân chăc chắn,có sự quản lý,giám sát chặt chẽ thì vốn đầu tư từ các ngân hang Thương Mại đã đóng góp tới hơn 15% trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội(giai đoạn từ năm 2000 – 2004)
Hiện nay các ngân hàng Thương mại rất quan tâm tới vấn đề thẩm định đối với các dự án đầu tư biểu hiện cụ thể bởi 2 lí do:Một là thẩm định dự án đầu tư góp phần quan trọng trong thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế của quốc gia,thực hiện các chương trình kinh tế trọng điểm.Hai là thẩm định nhưng chưa được áp dụng đúng mức ở tất cả các cấp ngành,các bộ phận,các cơ quan quản lý một cách hợp lý và chặt chẽ trong tổng thể nền kinh tế Việt Nam.
Cũng như nhiều nước đang phát triển khác ,những số tiền lớn của xã hội chi cho việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và đầu tư trực tiếp sản xuất nhưng bị lãng phí do chưa điều tra kĩ lưỡng về tính khr thi của các phương án,nhu cầu thị trường và hiệu quả kinh tế.Mặc dù sự lầm lẫn trong một số quyết định đầu tư là không thể tránh khỏi nhưng cần một số kĩ thuật tốt để thẩm định các dự án một cách hệ thống.Những kĩ thuật này có thể làm tăng vọt tỷ lệ các dự án thành công và các quan chức cũng như các nhà quản lý kinh tế nên học tập và áp dụng chúng.
Hơn thế,qua thực tế ta cũng thấy rằng trong số rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của đầu tư nói chung và vấn đề thẩm định đối với dự án đầu tư trong các ngân hàng Thương Mại nói riêng thì thẩm định dự án có vai trò quan trọng nhất. Để góp phần một lần nữa làm sáng tỏ điều này em lự chọn đề tài:”Nội dung thẩm định dự án đầu tư trong các Ngân hàng Thương Mại ở Viêt Nam có nghiên cứu thực trạng thẩm định đối với các dự án đầu tư đặc biệt là trong các dự án đầu tư đặc biệt là các Ngân hàng Thương Mại ở Việt Nam có nghiên cứu thực trạng thẩm định dự án trong hệ thống ngân hàng hiện nay.
47 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3176 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung thẩm định dự án đầu tư trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tên đề tài:
Nội dung thẩm định dự án đầu tư trong các ngân hang Thương mại ở Việt Nam
Từ nhiều năm nay hoạt động đầu tư theo dự án đã đóng vai trò quan trọng trong việc tái tạo duy trì năng lực sản xuất,phát triển cơ sở hạ tầng của xã hội nói chung và của doanh nghiệp nói riêng.Thực tế cho thấy có nhiều phương pháp để huy động vốn cho đầu tư phát triển cũng như cho hoạt động sản xuất kinh doanh như:vốn cấp phát từ ngân sách,vốn cổ phần bán công trái,và một số công cụ nợ khác.Tuy nhiên với ưu thế là nguồn vốn lớn,thời gian giải ngân chăc chắn,có sự quản lý,giám sát chặt chẽ…thì vốn đầu tư từ các ngân hang Thương Mại đã đóng góp tới hơn 15% trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội(giai đoạn từ năm 2000 – 2004)
Hiện nay các ngân hàng Thương mại rất quan tâm tới vấn đề thẩm định đối với các dự án đầu tư biểu hiện cụ thể bởi 2 lí do:Một là thẩm định dự án đầu tư góp phần quan trọng trong thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế của quốc gia,thực hiện các chương trình kinh tế trọng điểm.Hai là thẩm định nhưng chưa được áp dụng đúng mức ở tất cả các cấp ngành,các bộ phận,các cơ quan quản lý một cách hợp lý và chặt chẽ trong tổng thể nền kinh tế Việt Nam.
Cũng như nhiều nước đang phát triển khác ,những số tiền lớn của xã hội chi cho việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và đầu tư trực tiếp sản xuất nhưng bị lãng phí do chưa điều tra kĩ lưỡng về tính khr thi của các phương án,nhu cầu thị trường và hiệu quả kinh tế.Mặc dù sự lầm lẫn trong một số quyết định đầu tư là không thể tránh khỏi nhưng cần một số kĩ thuật tốt để thẩm định các dự án một cách hệ thống.Những kĩ thuật này có thể làm tăng vọt tỷ lệ các dự án thành công và các quan chức cũng như các nhà quản lý kinh tế nên học tập và áp dụng chúng.
Hơn thế,qua thực tế ta cũng thấy rằng trong số rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của đầu tư nói chung và vấn đề thẩm định đối với dự án đầu tư trong các ngân hàng Thương Mại nói riêng thì thẩm định dự án có vai trò quan trọng nhất. Để góp phần một lần nữa làm sáng tỏ điều này em lự chọn đề tài:”Nội dung thẩm định dự án đầu tư trong các Ngân hàng Thương Mại ở Viêt Nam có nghiên cứu thực trạng thẩm định đối với các dự án đầu tư đặc biệt là trong các dự án đầu tư đặc biệt là các Ngân hàng Thương Mại ở Việt Nam có nghiên cứu thực trạng thẩm định dự án trong hệ thống ngân hàng hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo TS Trần Mai Hương trong quá trình em thực hiện dự án.Em rất mong có sự đóng góp ý kiến của các thầy cô.
Chương I: Lý luận chung
I.Ngân hàng thương mại(NHTM)_vai trò của NHTM trong đầu tư phát triển kinh tế xã hội:
1.Khái niệm NHTM:
- Đầu tiên ngân hàng thương mại là một loại ngân hàng trung gian. Ở mỗi nước có một cách định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại. Ví dụ: Ở Mỹ: ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và họat động trong ngành dịch vị tài chính. Ở Pháp: ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính Ở Ấn Độ: ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kì: ngân hàng thương mại là hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền kí thác và thực hiện các nghiệp vụ hối phiếu,nghiệp vụ công hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn khác…Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước Việt Nam xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
- Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là "vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của ngân hàng thương mại.. Hoạt động của ngân hàng thương mại phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Trong ngân hàng thương mại, tiền huy động được của người gửi gọi là tài sản "nợ", tiền cho công ty và các cá nhân vay cũng như tiền gửi ở các ngân hàng khác và s ố tr ái phi ếu ngân hàng sở hữu gọi là tài sản "có" của ngân hàng. Phần chênh lệch giữa số tiền huy động được và số tiền đem cho vay, gủi ngân hàng và mua trái phiếu gọi là vốn tự có. Phần tài sản có tính thanh khoản cao được giữ để đề phòng trường hợp tiền gửi vào ngân hàng bị rút đột ngột g ọi l à t ỉ lệ dự trữ của ngân hàng bộ số vốn của ngân hàng được chia làm hai loại vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp 1 còn gọi là vốn nòng cốt, về cơ bản bao gồm vốn điều lệ, lợi nhuận không chia và các quỹ dự trữ lập trên cơ sở trích từ lợi nhuận của tổ chức như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Vốn cấp 2 bao gồm: phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức, nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài (như tr ái phiếu chuyển đổi ,cổ phiếu ưu đãi một số công cụ nợ khác).
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, ngân hàng thương mại thực sự đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu. Năm 2005-2006 Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại Nhà nước với mục đích quan trọng nhất là nâng cao năng lực tài chính của các tổ chức này. Tính đến tháng 2-2007 đã có 34 ngân hàng thương mại hoàn tất việc cổ phần hóa với tổng số vốn điều lệ trên 21.000 tỷ đồng , trong đó Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn Thương tín có số vốn điều lệ cao nhất là trên 2.089 tỷ đồng.
2.Vai trò của ngân hàng thương m ại trong đầu tư phát triển kinh tế xã hội:
2.1. Vai trò tập trung vốn của nền kinh tế
Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông) nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay.
Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế; mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh lệch có được nó sẽ duy trì họat động của mình.
Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,… NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển giao mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua trái phiếu công ty…
2.2Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán
Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khỏan. Khi các khách hàng gởi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan thanh tóan có giá trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và không an toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo quản…).
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và độc quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán..) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển phần lớn thanh toán được thực hiện qua sec và được thực hiện bằng việc bù trừ thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển tiền bằng đện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không sử dụng sec ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối mạng các máy vi tính của các ngân hàng thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài khoản người này sang người khác một cách nhanh chóng.
2.3.Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp
Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng không còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
2.4.Vai trò của ngân hàng thương mại trong việc tham gia phát triển thị trường chứng khoán
Với trên 5 năm hình thành và hoạt động, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Riêng trong năm 2005, chỉ số VNIndex đã tăng từ 237,23 lên 307,5, tức 30%. Tổng giá trị thị trường đạt 26.878 tỷ đồng, trong đó cổ phiếu chiếm 10,4%, trái phiếu chiếm 88,7% và chứng chỉ quỹ chiếm 0,9% .
Tuy còn non trẻ, nhưng TTCK Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh dẫn vốn quan trọng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Người ta thường cho rằng, khi TTCK có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ thì lượng chu chuyển vốn qua hệ thống Ngân hàng Thương mại (NHTM) bị giảm sút và ngược lại. Tuy nhiên, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam với tiềm năng về vốn trong dân cư còn rất lớn thì nếu có sự tham gia của các NHTM vào TTCK sớm hơn và mạnh mẽ hơn thì TTCK còn có những bước phát triển ngoạn mục hơn nữa.
2.4.1. Trên thị trường sơ cấp.
a. Vai trò phát hành:
Nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài hạn thông qua phát hành trái phiếu của các NHTM là rất lớn. Cho đến nay, hoạt động phát hành trái phiếu của các NHTM chưa phải là hoạt động thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên, đợt phát hành trái phiếu tăng vốn vừa qua của Ngân hành Ngoại thương (NHNT) đã chứng tỏ mối quan tâm lớn của thị trường đối với trái phiếu ngân hàng, đặc biệt là các NHTM hoạt động tốt có uy tín. Nhằm phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, yêu cầu về mở rộng quy mô vốn của các NHTM càng đặt ra bức thiết. Việc các NHTM phát hành trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: một mặt, nó góp phần tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán, mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.
b. Vai trò đầu tư trực tiếp:
Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn, các NHTM có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu, đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn. Trên thực tế, một số lượng lớn trái phiếu Chính phủ và công trái là do NHTM mua. Trong năm 2005, tổng lượng trái phiếu Chính phủ phát hành là 17.226 tỷ đồng, trong đó các NHTM mua 12.058 tỷ đồng, chiếm khoản 70%.
c.Vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành:
Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong đó có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu với tư cách là đại lý sơ cấp (Primary Dealers) hoặc bảo lãnh phát hành.
Tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái phiếu Chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu Chính phủ còn được chào bán qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa có hệ thống các đại lý sơ cấp. Việc hình thành hệ thống đại lý sơ cấp với sự tham gia của các NHTM sẽ góp phần đẩy nhanh và hiệu quả qúa trình phân phối trái phiếu Chính phủ.
2.4.2.Trên thị trường thứ cấp.
Với vai trò là trung gian trên thị trường, các NHTM có thể thực hiện các nghiệp vụ sau:
a. Kinh doanh trái phiếu:
Mới đưa vào hoạt động từ tháng 8/2005, hoạt động kinh doanh trái phiếu của NHNT với 13 đối tác là các NHTM và các công ty chứng khoán đã có những kết quả hết sức khả quan. Tính đến hết năm 2005, tổng doanh số giao dịch đạt khoảng 2.700 tỷ đồng, trong đó chiếm phần lớn là hoạt động bán mua lại (chiếm khoảng 2.670 tỷ đồng, tức là khoảng 99%). Do vậy có thể thấy rõ ràng hoạt động kinh doanh trái phiếu của NHNT thực chất là hoạt động chiết khấu, tạo thanh khoản cho thị trường. Bện cạnh đó, hoạt động kinh doanh trái phiếu, công trái với các nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng có tiềm năng phát triển lớn, nhưng chưa được tổ chức thật sự chuyên nghiệp. Một ưu điểm nữa của hình thức kinh doanh này là không bị giới hạn bởi thời gian giao dịch của thị trường chứng khoán tập trung.
b. Sản phẩm phái sinh:
Các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh như: hoán đổi, kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường. Ở đây, sự kết hợp liên thị trường giữa thị trường tiền tệ với thị trường chứng khoán sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh (đầu cơ) và bảo hiểm rủi ro, đồng thời tăng tính thanh khoản của thị trường.
c.Cho vay chứng khoán:
Nghiệp vụ cho vay chứng khoán rất phổ biến đối với các TTCK phát triển. Tại Mỹ, Cục dự trữ liên bang (Fed) thực hiện nghiệp vụ này với các đại lý sơ cấp đối với trái phiếu Chính phủ. Nghiệp vụ này một mặt làm tăng thanh khoản của thị trường, mặt khác giúp Fed điều tiết được lượng cung tiền. Tài sản thế chấp thường là tiền mặt. Nghiệp vụ cho vay chứng khoán giữa các trung gian tài chính có phạm vi rộng hơn cả về danh mục chứng khoán cho vay cũng như danh mục tài sản thế chấp. Bên vay thế chấp tài sản khi nhận chứng khoán và phải trả lại chứng khoán, đồng thời nhận lại tài sản thế chấp khi đáo hạn. Việc cho vay chứng khoán thực sự góp phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường, đồng thời có thể giúp các bên tham gia (đặc biệt là đối với các trung gian tài chính) tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc kinh doanh chứng khoán đi vay hoặc nhận thế chấp.
II.Thẩm định dự án đầu tư - công cụ hữu hiệu được sử dụng trong các NHTM:
1.Khái niệm và sự cần thiết của thẩm định dự án trong các ngân hàng thương mại:
-Thẩm định theo tư điển tiếng Việt là sự xem xét để quyết định thực hiện.Theo giáo trình Kinh tế đầu tư thì Thẩm định dự án là việc tổ chức xem xét một cách khách quan,có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án,từ đó ra quyết định và cho phép đầu tư.
Thẩm định dự án là các bước công việc thuec hiện xen kẽ của cấp có thẩm quyền trong tiến trình đầu tư,trên cơ sở tài liệu có tính chất pháp lý,các giải trình kinh tế kĩ thuật đã được thiết lập,”thẩm tra lại”,” đánh giá lại” về các mặt như:tính pháp lý,tính phù hợp,tính thống nhất,tính hiệu quả,tính hiện thực…đứng trên giác độ một doanh nghiệp,một tổ chức và trên giác độ toàn bộ nền kinh tế nhằm hợp pháp hoá dự án và điều chỉnh tiến trình triển khai thưc hiện dự án đầu tư.
Đầu tư thực chất là sự hy sinh các nguồn lực (tài chính,con người,tài nguyên,các laọi của cải khác), ở hiện tại để kỳ vọng thu được lợi ích lớn hơn trong tương lai.Dự án là một tập tai liệu ghi cụ thể các công việc cần làm,các chi phí phải bỏ ra,các lợi ích có thể thu được hay nói một cách khác dự án là một bức tranh phối cảnh với csc mảng mầu sáng tối hoàn toàn theo ý tưởngvà điều kiện cũng như khả năng của hoạ sĩ. Để thu được nhiều lợi ích nhất và hạn chếđược nhiều rủi ro nhất thì cần phải có biện pháp giám sát được rủi ro nhiều nhất thì cần phải có biện pháp giám sát được sự chuẩn bị và thực hiện đầu tư một cách tốt nhất mà thông thường thì phòng tránh và ngăn ngừa rủi ro thì tốt hơn nhiều việc phải khắc phục rủi ro gặp phải nếu không lường trước được.Do đó thực hiện Thẩm định dự án một cách khoa học,khách quan là phương pháp tốt nhất.Hoạt động đầu tư có đặc điểm vốn lớn,diễn ra trong thời gian dài,vốn nằm khê đọng lâu chịu rất nhiều tác đọng của các yếu tố bất định vì thế mà cần xem xét đánh giá kỹ lưỡng về các mặt như: khả năng huy động vốn,khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào(máy móc,thiết bị),nguồn nguyên vật liệu,năng lượn,thị trường đầu ra,các loại rủi ro có thể xẩy ra và các biện pháp phòng ngừa cũng như khắc phục hậu quả nếu nó xẩy ra…Trong dự án đã trình bày rất rõ các vấn đề trên tuy nhiên để kiểm tra độ chính xác và nhìn nhận trên nhiều góc độ thì Thẩm định dự án làm được.
Nhà nước quản lý hoạt động kinh tế nói chung và các hoạt đọng đầu tư nói riêng thông qua các qui định luật pháp,các chính sách nhà nước quản lý hoạt động đầu tư thông qua việc thẩm định để cấp phép đầu tư,các chế độ ưu đãi,khuyến khích đầu tư.Mọi công cuộc đầu tư đều có những lợ ích cũng như những thiệt hai xã hội,nhiệm vụ của nhà nước làm sao để tối đa hoá lợi ích,tối thiểu hoá thiệt hại của xã hội.Nhiều khi lợi ích của chủ đầu tư và xã hội mâu thuẫn nhau,nhà nước phải xem xét để dung hoà,xử lý mâu thuẫn này.Nước nào cũng có chính sách kinh tế,có luật pháp,có mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế khác nhau vè để hướng các hoạt đọng kinh tế nói chung,hoạt động đầu tư nói riêng theo đúng đường lối chiến lược thì phải giám sát,quản lý – rõ ràng.Thẩm định dự án là một biện pháp rất hiệu quả.
Thông thường có nhiều cách để sử dụng vốn,một sự đầu tư bao giờ cũng phải chịu mất một khoản chi phí cơ hội nhiều khi giá trị của nó khá lớn do đó phải cân nhắc kĩ trước khi quyết đinh đầu tư. Để có thể thấy được tính khả thi của dự án, để khẳng định rằng các chi phí mà dự án yêu cầu là phù hợp với khả năng thực tế,các chi phí thực hiện là hợp lý và tương xứng với những lợi ích thu được,các yếu tố như:công nghệ,kĩ thuật ,trinh độ khả năng người lao động,các tác động môi trường là phù hợp với thực tế đòi hỏi,không vi phạm pháp luật thì chủ đầu tư thực hiện thẩm định dự án.Ngoài ra, để kiểm tra độ chính xác của các công thức tính toán và các thông tin có trong dự án là đúng sự thật, đánh giá sự khách quan của dự án về các mặt khác tất nhiên chủ đầu tư sẽ tiên hành Thẩm định dự án.
Cũng với mục đích kiểm tra mức độ sinh lời,tính khả thi và các rủi ro có thể có,các tổ chức tài chính cụ thể là các ngân hàng cũng thực hiện Thẩm định dự án.Với tư cách la tổ chức tài trợ vốn cho các dự án,ngân hàng sẽ thu được lợi nếu các dự án thực hiệnđạt hiệu quả - ít ra là như dự tính.Do bản chất của hoạt động ngân hàng là kinh doanh qua tay người khác cho nên rủi ro của ngân hàng sẽ nhiều gấp đôi chủ đầu tư bởi ngoài rủi ro trong hoạt động nghiệp vụchuyên môn ngân hàng còn phải gánh chịu một phần rủi ro trong hoạt động kinh doanh của chủ đầu tư.Vì vậy mà Thẩm định dự án là một việc làm hết sức cần thiết đối với sự an toàn của ngân hàng.
Như vậy Thẩm định dự án la cần thiết đối với các cơ quan quản lí nhà nước,các ngân hàng,chủ đầu tư nhưng thẩm định dự án chỉ thực sự góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư nếu chúng được áp dụng một cách khoa học,phù hợp và các chủ đề thực hiện thẩm định thực sự khách quan.
2.Mục đích thẩm định dự án
Quá trình xem xét đánh giá dự án thưo các nội dung trên là để người thẩm định có thể đưa ra các kết kuận sau:
+Dự án phù hợp như thế nào với mục tiêu,chiến lươc,qui hoạch phát triển của đất nước,của vùng,của ngành.Các kế hoạch,qui hoạch ảnh hưởng như thế nào tới dự án và dự án sẽ nhận được những ưu đãi gì trong từng điều kiện cụ thể,thời gian xác định.
+Dự án có tính hệ thống và hợp lý không,nếu có thì ở nức độ nào.
+Các tài sản tài chính hình thnàh nên vốn đầu tư có hợp pháp hay không,các biện háp xử lí trong trường hợp xảy ra rủi ro có tuân theo các qui đ