Sau hơn 11 năm ,với 200 cuộc đàm phán gia nhập WTO (tổ chức thương mại thế giới) ,cuối cùng vào ngày 7-11 thì Việt Nam đã chính thức được công nhận là thành viên thứ 150 của tổ chức này.Sự kiện này không chỉ mang lại thành công về mặt thương mại ,ngoại giao mà còn đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế Việt Nam kể từ sau khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới.
Đóng góp vào sự tăng trưởng ngoạn mục đó, hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế có vai trò quan trọng nhất. Tuy nhiên, trong những năm qua, do tàn dư nhận thức của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp trước đây, hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế: tập trung đầu tư hướng vào phát triển theo chiều rộng, hướng vào thị trường trong nước, chưa chú trọng đầu tư theo chiều sâu, hướng về xuất khẩu. Đặc biệt cơ cấu đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong các doanh nghiệp còn nhiều điểm bất hợp lý và mất cân đối. Trong mối tương quan với hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình, hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình chưa được quan tâm đúng mức. Thực trạng đó đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.Muốn cạnh tranh được với các thành viên khác trong WTO thì chúng ta cần phải có những mục tiêu và hướng đi phù hợp.
Chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình” mong muốn đóng góp, làm hoàn thiện hơn hệ thống tư duy lý luận về hoạt động đầu tư phát triển trong nền kinh tế nói chung và trong các doanh nghiệp nói riêng trong thời đại mới.
Trong quá trình nghiên cứu tất nhiên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.Mong thầy cô đóng góp ý kiến để chúng em có thể hoàn thiện hơn.
31 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 8414 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH TẾ ĐẦU TƯ
Đề tài : Đề tài: Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp.
Nhóm 9: _ Giang Văn Phương
_ Đào Tuấn Trung
_ Vũ Trung Kiên
_ Nguyễn Quang Huy
_ Nguyễn Văn Học
MỞ ĐẦU
Sau hơn 11 năm ,với 200 cuộc đàm phán gia nhập WTO (tổ chức thương mại thế giới) ,cuối cùng vào ngày 7-11 thì Việt Nam đã chính thức được công nhận là thành viên thứ 150 của tổ chức này.Sự kiện này không chỉ mang lại thành công về mặt thương mại ,ngoại giao mà còn đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế Việt Nam kể từ sau khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới.
Đóng góp vào sự tăng trưởng ngoạn mục đó, hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế có vai trò quan trọng nhất. Tuy nhiên, trong những năm qua, do tàn dư nhận thức của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp trước đây, hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế: tập trung đầu tư hướng vào phát triển theo chiều rộng, hướng vào thị trường trong nước, chưa chú trọng đầu tư theo chiều sâu, hướng về xuất khẩu. Đặc biệt cơ cấu đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong các doanh nghiệp còn nhiều điểm bất hợp lý và mất cân đối. Trong mối tương quan với hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình, hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình chưa được quan tâm đúng mức. Thực trạng đó đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.Muốn cạnh tranh được với các thành viên khác trong WTO thì chúng ta cần phải có những mục tiêu và hướng đi phù hợp.
Chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình” mong muốn đóng góp, làm hoàn thiện hơn hệ thống tư duy lý luận về hoạt động đầu tư phát triển trong nền kinh tế nói chung và trong các doanh nghiệp nói riêng trong thời đại mới.
Trong quá trình nghiên cứu tất nhiên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.Mong thầy cô đóng góp ý kiến để chúng em có thể hoàn thiện hơn.
B - NỘI DUNG
CHƯƠNG I -NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VAO TSHH,TSVH VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀO TSHH VÀ TSVH
1 ) ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH (TSHH )
1.1 ) Lý luận chung về TSHH
Khái niệm :Tài sản hữu hình là những tài sản có hinh thái vật chất,co đủ điều kiện của tài sản cố định về giá trị và thời gian sử dụng theo quy định trong chế độ quản lí tài chính hiện hành như các tài sản hiệm vật cụ thể như là nhà xưởng,máy móc thiết bị ,phương tiện vận tải,vật liệu kiến trúc , đất canh tác , đất xay dựng…
Phân loại :Nhà cửa, vật kiến trúc: là tài sản cố định của doanh nghiệp hình thành sau quá trình thi công xây dựng như: trụ sở làm việc, nhà xưởng, nhà kho, hàng rào, bể, tháp nước, sân bãi, các công trình cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống, đường sắt, cầu tàu, cầu cảng…
- Máy móc thiết bị: bao gồm các loại máy móc thiết bị dùng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây chuyền công nghệ, những máy móc đơn lẻ…
- Phương tiện vận tải thiết bị truyền dẫn: là các phương tiện vận tải gồm phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống thông tin, hệ thống điện, đường ống nước, băng tải…
- Thiệt bị, dụng cụ dùng trong quản lý: gồm các thiết bị dụng cụ dùng cho công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như thiết bị dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy vi tính, máy photocopy, máy hút bụi, hút ẩ
- Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm như: vườn cà phê, vườn chè, vườn cao su, vườn cây ăn quả, thảm cỏ, thảm cây xanh…; súc vật làm việc ( voi, bò, ngựa cày kéo…) và súc vật nuôi để lấy sản phẩm ( bò sữa, súc vật sinh sản…).
- Tài sản hữu hình khác: bao gồm những tài sản cố định mà chưa được quy định, phản ánh vào các loại trên ( tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật, sách chuyên môn, kĩ thuật…)
nghiệp
Tài sản hữu hình thường chiếm một tỉ trọng khá lớn trong tổng tài sản của doanh nghiệp đồng thời có ý nghĩa cực kì quan trọng. Nó tác động trực tiếp vào đối tượng sản xuất để tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề đầu tư vào tài sản cố định hữu hình trong doanh nghiệp là mục tiêu trước mắt và lâu dài cho quá trình tồn tại và hoạt động của doanh nghiep
1.2 )Lý luận chung về đầu tư vào TSHH
Khái niệm đầu tư : Đầu tư là việc bỏ vốn hoặc chi dùng vốn cùng với các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó(tạo ra hoặc khai thác một tài sản) nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai
Khái niệm về đầu tư vao TSHH:Là việc tập trung nguồn lực của doanh nghiệp vào TSHH nhằm đạt được mục đích của doanh nghiệp trong tương lai
Nội dung đầu tư vào TSHH :
Xây dựng hệ thống kho tàng,nhà xưởng:
Nếu căn cứ vào công dụng của kho tàng sẽ có kho nhập,kho chuẩn bị,kho trung gian và kho xuất.Thường thường doanh nghiệp phải xây dưng không chỉ kho nhập mà phỉa xây dựng cả kho chuẩn bị,kho trung gian và kho xuất nguyên vật liệu.Kho nhập chứa các loại nguyên vật liệu mua vào và cần thiết được bố trí ở vị trí trước và gần với khâu sản xuất.Kho chuẩn bị được bố trí như những nơi làm việc nhất định hoàn toàn phụ thuộc vào yêu cầu sơ chế nguyên vật liệu trước khi đưa vào sản xuất.Kho trung gian cần cho các loại sản phẩm dở dang và bán thành phẩm ở mức độ khác nhau nằm trên dây chuyền sản xuất.Kho xuất thành phẩm chuẩn bị thành phẩm xuất cho nơi sử dụng.Kho xuất nằm ở cuối dây chuyền sản xuất và thường gắn với bộ phận tiêu thụ.
Doanh nghiệp căn cứ vào không gian phân bố.Căn cứ vào không gian phân bố có hình thức kho tập trung và phân tán.Kho tập trung là hình thức tổ chức ở một doanh nghiệp một kho lớn cho mọi nghuyên vật liệu lưu kho .Với hình thức xây dựng kho tập trung sẽ giảm được chi phí kinh doanh xây dựng .quản trị kho táng so với hình thức xây dựng kho phân tán nhờ giảm khối lượng công việc xây dựng.lao động quản trị và hợp lí hoá khâu bố trí hang hoá trong kho cũng như sử dụng thiết bị vận chuyển bảo vệ kho tàng…
Xác định lượng kho cũng như địa điểm đặt kho tối ưư trong hệ thống kho tàng phân tán sẽ đặc biệt có ý nghĩa với các doanh nghiệp thương mại ,các doanh nghiệp sản xuất đòi hỏi phải mua nguyên vật liệu và tổ chức sản xuất bán hàng trên địa bàn rộng.
Đầu tư vào cở vật chất kỹ thuật và ứng dụng thiết bị kỹ thuật:
Công cụ lao động là phương tiện mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động .Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với quá trình phát triển công cụ lao động .Sự phát triển của công cụ lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao động ,tăng sản lượng ,chất lượng sản phẩm và hạ giá thành .Như thế cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân tố hết sức quan trọng tạo ra tiềm năng tăng năng suất lao động ,chất lượng và tăng hiệu quả kinh doanh.Chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp chịu tác động mạnh mẽ của trình độ kỹ thuật ,cơ cấu ,tính động bộ của máy móc thiết bị.
Nhiều doanh nghiệp nước ta hiện nay có cơ sở vật chất kỹ thuật ,trang thiết bị còn hết sức yếu kém ,máy móc thiết bị sản xuất vừa lạc hậu vừa không đồng bộ. Đồng thời trong những năm qua việc quản trị sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật cũng không được chú trọng nên nhiều doanh nghiệp không sử dụng và phát huy hết năng lực sản xuất hiện có của mình.
Bảo dưỡng và sửa chữa:
Là hoạt động càn thiết cho mọi doanh nghiệp vừa mới xây dựng và còn đang hoạt động.Mọi yếu tố cấu thành doanh nghiệp bao gồm mặt bằng ,nhà xưởng ,vật kiến trúc ,máy móc thiết bị,phương tiện vận tải ,hệ thống xử lý chất thải ….cần được bảo dưỡng và sửa chữa.
Có thể phân loại kỹ thuật bảo dưỡng và sửa chữa thành các nhiệm vụ chính và phụ :
Nhiệm vụ chính : bảo dưỡng và sửa chữa mặt bằng ,nhà xưởng ,vật kiến trúc …
Bảo dưỡng và sửa chữa các thiết bị hiện có ,kiểm tra vệ sinh và tra dầu mỡ máy móc thiết bị ,thay đổi và lắp đặt mới ,phân phối năng lượng ..
Các nhiệm vụ là bảo đảm an toàn cho doanh nghiệp ,kho tàng ,giải quyết phế thải ,chống ô nhiễm và tiếng ồn , đảm bảo vệ sinh công cộng .
Doanh nghiệp cần xác định chính xác số lượng lao động và thời gian ngừng sản xuất để sửa chữa theo từng đối tượng sửa chữa .Các phương pháp là phương pháp thông kê kinh nghiệm hoặc dựa vào định mức thời gian sửa chữa chia thành 2 loại : công vẹec nguội và công việc máy
Các công việc nguội phải thực hiện trực tiếp tại đối tượng cần sửa chữa như tháo lắp ,gia công nguội …nên cần có điều kiện là đối tượng sửa chữa ngừng hoạt động công việc máy không thao tác tại đối tượng sửa chữa được xác định trên cơ sở thời gian cần thiết để thực hiện nguội ,mức huy động lực lượng lao động sửa chữa hiện có và thời gian làm việc của bộ phận sửa chữa .Có thể xác định thời gian ngừng hoạt động để sửa chữa cho mỗi đối tượng theo công thức :
Nngừng =T nguội /(Cn*Ca*Gi*Hđm)
Trong đó :
Nngừng :số ngày đối tượng ngừng hoạt động để sửa chữa
Tnguội : thời gian cần thiết để hoàn thành công việc nguội
Lnguội : số lao động cùng làm việc trong ca
Ca : số ca làm việc trong ngày
Gi : số giờ làm việc trong ca
Hđm : hệ số hoàn thành định mức thời gian
Tăng cường công tác kiểm tra .Hoạt động bảo dưỡng và sửa chữa phải được kiểm tra . Để nâng cao chất lượng kiểm tra phải từng bước ứng dụng kỹ thuật phần mềm máy tính và công tác thống kê theo dõi hoạt động kiểm tra.
2 ) ĐẦU TƯ VÀO TSVH
2.1 ) Lý luận chung về TSVH
Khái niệm : Theo Ủy ban Tiêu chuẩn Thẩm định giá quốc tế “Tài sản vô hình là những tài sản thể hiện ra bằng những lợi ích kinh tế, chúng không có cấu tạo vật chất, mà tạo ra những quyền và những ưu thế đối với người sở hữu và thường sinh ra thu nhập cho người sở hữu chúng”.
Phân loại : theo luật thuế thu nhập của Mỹ có 6 loại cơ bản:
- Các sáng chế, phát minh, công thức tính, quy trình, mô hình, kỹ năng.
- Bản quyền và các tác phẩm văn học, âm nhạc, nghệ thuật.
- Thương hiệu, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá.
-Thương quyền, giấy phép, hợp đồng.
- Phương pháp, chương trình, hệ thống, thủ tục, nghiên cứu, dự báo, dự toán, danh sách khách hàng, các số liệu kỹ thuật.
- Các thứ “tương tự” khác. Một thứ được gọi là tương tự nếu nó tạo ra giá trị không phải nhờ vào các thuộc tính vật chất mà nhờ vào nội dung trí tuệ hoặc các quyền tài sản vô hình khác của nó.
Cách tính : Hiện nay có 2 cách tiếp cận chính trong việc xác định giá trị của tài sản vô hình trong doanh nghiệp: thứ nhất, trực tiếp đi vào đánh giá giá trị của tài sản vô hình; thứ hai, bằng phương pháp gián tiếp, tính toán thông qua việc xác định giá trị doanh nghiệp tổng thể sau đó trừ đi giá trị của tài sản hữu hình trong doanh nghiệp đó, cụ thể:
Hướng thứ nhất - trực tiếp đi vào đánh giá giá trị của tài sản vô hình. Theo hướng này có phương pháp cơ bản sau:
Thứ nhất: Các phương pháp chi phí: các phương pháp này dựa trên cơ sở cho rằng giá trị của một tài sản được đo bằng chi phí để làm ra tài sản đó. Và hiện tại, có 2 phương pháp xác định giá trị tài sản vô hình dựa trên chi phí: một là, phương pháp chi phí quá khứ và hai là, phương pháp chi phí tái tạo.
Phương pháp chi phí quá khứ: để xác định giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp, người ta đi vào trực tiếp xác định và tổng hợp các chi phí đã phát sinh trong quá trình xây dựng tài sản vô hình đó. Phương pháp này có ưu điểm, chỉ ra được những chi phí cụ thể để tạo ra tài sản vô hình. Tuy nhiên, nó lại chứa đựng nhược điểm lớn, đó là chi phí không phản ánh giá trị thị trường hiện tại của tài sản vô hình, đồng thời phương pháp này không tính đến những lợi ích mà tài sản vô hình mang lại trong tương lai.
Phương pháp chi phí tái tạo: phương pháp này đi vào tính toán tất cả các chi phí cần thiết hiện nay để tạo dựng tài sản vô hình như hiện tại. Như vậy, phương pháp chi phí tái tạo cho phép xác định giá trị tài sản vô hình với giá trị thị trường hơn, nhưng một trong những khó khăn của phương pháp này là khó khăn khi xác định các chi phí hiện tại tương đương để hình thành ra tài sản, đặc biệt khi tài sản đó lại là tài sản vô hình.
Thứ hai: Phương pháp tính siêu lợi nhuận: phương pháp này dựa trên cơ sở cho rằng 1 doanh nghiệp có thể đạt tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ suất lợi nhuận trung bình của ngành nghề mà doanh nghiệp đang hoạt động, bởi vì doanh nghiệp đó có tài sản vô hình. Cho nên, giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp chính là giá trị hiện tại của dòng siêu lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được trong tương lai.
n SLNt
V = ∑ ---------
t=1 (1+i)t
Trong đó:
V: giá trị tài sản vô hình
SLNt: siêu lợi nhuận năm t
i: tỷ lệ chiết khấu
n: năm
Cách tiếp cận này cũng tương tự như cách tiếp cận trong việc xác định lợi thế thương mại, được nêu ra trong Thông tư 126/2004/TT-BTC, ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính.
Việc xác định giá trị tài sản theo phương pháp này có ưu điểm nổi trội đó là đã tính đến khả năng đóng góp và lợi ích mà tài sản vô hình mang lại trong tương lai, từ đó, giá trị tính toán ra có tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, phương pháp này gặp khó khăn trong việc lập luận về dòng siêu lợi nhuận trong tương lai, cũng như khó khăn trong việc xác định các tham số như: n, i...
Hướng thứ hai – gián tiếp tính toán thông qua việc xác định giá trị doanh nghiệp tổng thể sau đó trừ đi giá trị của tài sản hữu hình trong doanh nghiệp đó. Theo hướng này, trước hết chúng ta đi vào xác định tổng thể giá trị doanh nghiệp (bao gồm cả giá trị sản sản hữu hình và giá trị tài sản vô hình) bằng các phương pháp khác nhau, như các phương pháp chiết khấu dòng tiền... sau đó đi vào đánh giá trực tiếp giá trị của các tài sản hữu hình trong doanh nghiệp bằng phương pháp tài sản (nếu công tác kế toán ở đình độ cao, chung ta có thể lấy trực tiếp kết quả trong bảng cân đối kế toán, còn không thì phải đi vào đánh giá lại toàn bộ giá trị của các tài sản hữu hình trong doanh nghiệp theo giá thị trường – như phương pháp tài sản trong Thông tư 126/2004/TT-BTC, ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính). Khi đã xác định được 2 đại lượng nêu trên, chúng ta nhanh chóng tìm ra được giá trị của tài sản vô hình trong doanh nghiệp bằng cách lấy giá trị tổng thể của doanh nghiệp trừ đi giá trị của tài sản hữu hình đã đánh giá lại theo giá thị trường của doanh nghiệp đó.
Đóng góp của phương pháp này chính là sự thuận lợi hơn trong kỹ thuật tính toán giá trị doanh nghiệp tổng thể, cũng như giá trị tài sản hữu hình, và nếu 2 đại lượng đó được xác định đáng tin cậy, thì giá trị tài sản vô hình tính ra có độ chính xác rất cao. Tuy vậy, phương pháp này cũng chứa đựng nhược điểm là khó khăn khi dự báo về dòng tiền tương lai mà doanh nghiệp tạo ra, cũng như khó khăn trong việc xác định các tham số n, i... và việc tổng hợp chuẩn xác giá trị thị trường của các tài sản hữu hình trong doanh nghiệp cũng không phải là điều dễ dàng.
2.2 ) Lý luận chung về đầu tư vào TSVH.
Khái niệm :là việc tập trung các nguồn lực của mình vào TSVH nhằm mục đích cảu chủ đầu tư trong tương lai
Nội dung :
* Đầu tư vào chi phí thành lập doanh nghiệp.
Chi phí thành lập doanh nghiệp được coi là một loại tài sản vô hình cần được đầu tư ngay từ giai đoạn đầu và được tính khấu hao vào giá thành sản phẩm sau này. Đầu tư vào chi phí thành lập doanh nghiệp là phải chi tiền cho các chứng từ, giấy phép kinh doanh, giấy phép thành lập doanh nghiệp chi cho việc thuê luật sư tư vấn trong lĩnh vực thành lập doanh nghiệp nếu như chủ đầu tư chưa am hiểu về các bước để thành lập một doanh nghiệp …các khoản chi phí phải trả cho quá trình đi lại, xin chứng nhận chờ quyết định của cơ quan có thẩm quyền, chi phí cơ hội trong thời gian chờ đợi, chi phí tuyển nhân sự đầu tiên khi doanh nghiệp chưa đi vào hoạt động, chi phí phải bỏ ra để tổ chức các cuộc họp, đàm phán để đi đến quyết định thành lập doanh nghiệp ….Tất cả những khoản đó cần phải được tính vào vốn đầu tư vào chi phí thành lập doanh nghiệp(là tài sản vô hình của dự án sản xuất kinh doanh).
* Đ ầu tư vào thương hiệu :
Việc xây dựng thương hiệu đã trở thành một sự sùng bái ở hầu hết các công ty, và khó có thể thayđổi điều đó vì mọi người tin rằng bản thân thương hiệu là một thứ tạo nên hành vi tiêu dùng.Chúng ta có khuynh hướng cho rằng việc xây dựng thương hiệu phải đi trước kéo theo sự thànhcông của công ty. Sự thật là khi bạn quan sát hầu hết các công ty thì sản phẩm luôn được chàođời đầu tiên, nó xây dựng nên những yếu tố cơ bản của một tổ chức, và thương hiệu của nó sẽđược phát triển cùng với sự thành công của sản phẩm và dịch vụ sau hàng năm trời. Hãy lấy Coca- Cola làm một ví dụ. Mỗi ngày trên thế giới có khỏang 1 tỷ người mua một sản phẩm của Coca -Cola. Bây giờ hãy bỏ đi chai Coca - Cola, bỏ đi hệ thống phân phối của nó, bỏ đi những trung tâmbán hàng, bỏ đi 130 năm lịch sử, và thử tạo ra một sản phẩm hoàn tòan mới với cái tên Coca -Cola. Quảng cáo của nó sẽ không thể sử dụng được. Người ta vẫn tin rằng ngày nay bạn có thểtạo ra hình ảnh Coke chỉ bằng quảng cáo. Và tôi nói với bạn rằng, không thể, bạn phải xây dựngnhững yếu tố cơ bản làm nền móng cho một công ty, điều đó không đơn giản chút nào. Nó rất tốn kém, và tốn nhiều thời gian để phát triển để trở thành một phần của đời sống người tiêu dùng.
Thương hiệu là uy tín, là sự biết đến rộng rãi về doanh nghiệp ở trong nước cũng như trên thị trường quốc tế Để tạo dựng một thương hiệu mạnh là kết quả cuối cùng của mọi nỗ lực về đầu tư vào các khoản chi phí, đầu tư vào nhãn hiệu, đầu tư vào công nghệ kĩ thuật, vào kiểu dáng công nghiêp.Tất cả những cái đó kết hợp lại thành một thương hiệu mạnh có sức cạnh tranh lớn trên thị tr Công ty có thể không trực tiếp mua uy tín từ một công ty khác, nhưng để có được uy tín trên thường họ cũng phải bỏ ra các chi phí để giữ uy tín với khách hàng về chất lượng sản phẩm thời hạn giao hàng và thanh toán…việc bỏ ra các chi phí để thực hiện chế độ hậu mãi hoàn hảo cũng chính là sự đầu tư nhằm phát triển uy tín của doanh nghiệp. Giá trị của uy tín ở đây là tổng cộng các chi phí tăng thêm ngoài các chi phí để giữ sản phẩm ở chất lượng bình thường hoặc chi phí tăng thêm do phải giao hàng đúng hạn, hay lợi tức bị mất của số tiền phải thanh toán đúng hạn. Ở đây uy tín không phải là đối tượng mua bán trực tiếp mà nó được tự động hình thành thông qua các hành vi của doanh nghiệp, do vậy những chi phí tăng thêm này không được tình vào giá của uy tín vì chúng đã được hạch toán vào chi phí kinh doanh.
* Đầu tư vào nghiên cứu sáng chế, phát minh, giải pháp hữu hiệu
Để tạo ra được một giải pháp kĩ thuật mới so với trình độ kĩ thuật trên thế giới mang tính sáng tạo, có khả năng áp dụng vào sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp cần phải bỏ vốn ra để thuê các nhà nghiên cứu khoa học tìm ra một cách có hiệu quả nhất trong quá trình tạo ra sản phẩm, doanh nghiệp cũng có thể mua bằng sáng chế phát minh …Bằng cách này hay cách khác thì lượng vốn phải bỏ ra cho cho loại tài sản vô hình này là tương đối lớn và ngày càng quan trọng trong doanh nghiệp bởi vì: nó quyết định nhiều đến quá trình sản xuất, năng suất lao động, công suất làm việc cũng như chất lượng sản phẩm và từ đó quyết định đến giá bán của sản phẩm. Nếu có được một phát minh sáng chế mới thì nó sẽ mang lại một khoản lợi nhuận cho doanh nghiệp vì giảm được năng suất lao động, sản phẩm có tính mới trên thị trường ,thu hút được nhiều “khách sộp” tới mua hàng, “hớt phần ngọn của thị trường” thu được lợi nhuận cao và tiếp tục đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, những nhà quản lý doanh nghiệp cũng phải quản lý, kiểm soát quá trình làm việc của các chuyên gia tránh gây lãng phí nguồn vốn cũng như hiệu quả làm việc của các nhà nghiên cứu.
*Đầu tư vào khoa học công nghệ.
Đầu tư vào khoa học công nghệ cho doanh nghiệp có thể là đầu tư nghiên cứu công nghệ mới hoặc đầu tư mua sắm công nghệ từ nước ngoài. Trong sản xuất kinh doanh bí quyết công nghệ luôn luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu, vì vậy cần phải đầu tư vào công nghệ để tìm ra những công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất của doanh nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp cần phải bỏ ra một lượng vốn tương đối lớn để đầu tư nhằm tiếp cận, cập nhật những thông tin về thị trường công nghệ. Thêm vào đó cũng cần phải đầu tư vốn để tiếp cận được với những dịch vụ tư vấn có tính chất hỗ trợ trong việc xác định công nghệ thích hợp và hiệu quả g