Đề tài Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long

Ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm đất nói riêng là những vấn đề cấp bách hiện nay, trong đó ô nhiễm đất ở đồng bằng sông Cửu Long là một ví dụ cụ thể. Để có thể giải quyết, xây dựng được những biện pháp ngăn ngừa và khắc phục đòi hỏi thời gian và nhân lực, công nghệ. Dưới góc độ là sinh viên năm thứ ba ngành quản lý môi trường, nhóm III lớp DH06QM đã tiến hành nghiên cứu và tìm ra những nguyên nhân chủ yếu cũng như hiện trạng môi trường đất đồng bằng sông Cửu Long và đề xuất những biện pháp hữu hiệu nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường của vùng đồng bằng. Nhóm chú trọng tới hiện trạng môi trường của vùng và cố gắng phân tích, trình bày, trong quá trình thực hiện có sử dụng giáo trình và các tài liệu tham khảo của các chuyên gia trong lĩnh vực môi trường và lĩnh vực khác. Quá trình thực hiện đề tài không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong được sự góp ý của giảng viên môn học.

doc51 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3920 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm đất nói riêng là những vấn đề cấp bách hiện nay, trong đó ô nhiễm đất ở đồng bằng sông Cửu Long là một ví dụ cụ thể. Để có thể giải quyết, xây dựng được những biện pháp ngăn ngừa và khắc phục đòi hỏi thời gian và nhân lực, công nghệ. Dưới góc độ là sinh viên năm thứ ba ngành quản lý môi trường, nhóm III lớp DH06QM đã tiến hành nghiên cứu và tìm ra những nguyên nhân chủ yếu cũng như hiện trạng môi trường đất đồng bằng sông Cửu Long và đề xuất những biện pháp hữu hiệu nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường của vùng đồng bằng. Nhóm chú trọng tới hiện trạng môi trường của vùng và cố gắng phân tích, trình bày, trong quá trình thực hiện có sử dụng giáo trình và các tài liệu tham khảo của các chuyên gia trong lĩnh vực môi trường và lĩnh vực khác. Quá trình thực hiện đề tài không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong được sự góp ý của giảng viên môn học. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10/10/2008 Nhóm III –Lớp DH06QM CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề:  Các nhà khoa học môi trường thế giới đã cảnh báo rằng: cùng với ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí thì ô nhiễm đất đai cũng là vấn đề đáng báo động hiện nay, đặc biệt trong việc sử dụng nông dược và phân hoá học. Ô nhiễm đất không những ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp và chất lượng nông sản, mà còn thông qua lương thực, rau quả... ảnh hưởng gián tiếp tới sức khoẻ con người và động vật. Đất, nước và không khí là những điều kiện cơ bản cho sự sinh tồn của con người, những hiệu ứng phụ của khoa học công nghệ hiện đại đã hạn chế lớn tới sự phát triển lành mạnh của xã hội loài người, nếu chúng ta không có biện pháp từ hôm nay, chúng ta sẽ bị ảnh hưởng lớn trên những mảnh đất ô nhiễm ấy. Trong tự nhiên, môi trường đất có vai trò như một hệ sinh thái hoàn chỉnh. Nhưng hiện tại, môi trường đất ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung đang bị đe dọa bởi các yếu tố ô nhiễm do tích lũy những chất độc qua các mùa vụ và những hoạt động khác của con người. II.Ý nghĩa của đề tài: Tổng quan về tình hình sử dụng đất tại đồng bằng sông Cửu Long. Nắm vững kiến thức về ô nhiễm đất và các tác nhân gây ô nhiễm môi trường đất tại đồng bằng sông Cửu Long cũng như trong cả nước. Đề xuất những phương pháp khắc phục để bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường đất tại đồng bằng sông Cửu Long. CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN ĐẤT VIỆT NAM VÀ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG II.1. Đất: II.1.1. Khái niệm: Đất là một vật thể tự nhiên có cấu tạo độc lập lâu đời do kết quả của quá trình hoạt động tổng hợp của năm yếu tố hình thành đất bao gồm: Đá mẹ: sự hình thành đất là một quá trình phức tạp, biến đổi bởi nhiều yếu tố. Đá là nền móng của đất. Do đá bị phá hủy vỡ vụn nên thành phần khoáng của đất chiếm tới 95% trọng lượng khô. Nếu đá chứa nhiều cát thì đất sẽ nhiều cát, đá nhiều Kali thì đất giàu Kali… Sinh vật: chưa có sinh vật thì đá chưa tạo thành đất, trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của vi sinh vật, phân hủy xác bã động thực vật tạo thành chất mùn hữu cơ, tạo nên độ phì cho đất. Trong mỗi gam đất có từ hàng trăm triệu đến hàng tỉ vi sinh vật các loại. Chúng tích lũy một lượng lớn các nguyên tố dinh dưỡng hòa tan trong quá trình phong hóa, đặc biệt là đưa vào đất Nitơ phân tử (N2) từ không khí ở dạng chất hữu cơ chứa Nitơ của bản thân chúng. Bên cạnh đó, trong mỗi gam đất cũng có hàng trăm ngàn động vật nguyên sinh và động vật không xương sống khác tồn tại. Khí hậu, địa hình, đặc biệt là trị số nhiệt ẩm, ảnh hưởng lớn đến sự hình thành đất, tác động tới sinh vật và sự phá hủy của đá. Còn địa hình đóng vai trò tái phân phối lại những năng lượng mà thiên nhiên cung cấp cho mặt đất. Cùng ở một nhiệt độ nghĩa là được một lượng nhiệt mặt trời cho như nhau nhưng ở địa hình cao thì lạnh và ở địa hình gần với mặt đất thì nóng.. Thời gian: thời gian là một yếu tố đặc biệt. Mọi yếu tố ngoại cảnh tác động, mọi quá trình diễn ra trong đất đều đòi hỏi một thời gian nhất định. Con người: vai trò của con người khác hẳn các yếu tố kể trên. Qua hoạt động sống, nhờ các thành tựu khoa học kỹ thuật mà con người tác động vào thiên nhiên và đất đai một cách mạnh mẽ. Tác động này có thể là tích cực, phù hợp với quy luật tự nhiên, đem lại lợi ích cho con người như tưới nước, thủy lợi, tiêu nước hay bón phân cải tạo đất xấu và trồng rừng cho vùng đồi trọc. Hoặc tiêu cực như làm ô nhiễm đất bởi các chất độc hóa học, phá rừng gây xói mòn đất… II.1.2. Thành phần và cấu trúc, tính chất đất: Các loại đất dao động trong khoảng rộng về thành phần và cấu trúc theo từng khu vực. Các thành phần khoáng chất và các chất hữu cơ xác định cấu trúc, các tính chất khác của đất. Các thành phần chính của đất là chất khoáng, nước, không khí, chất mùn và các loại sinh vật từ vi sinh vật cho tới côn trùng, giun đất….Thành phần khoáng của đất bao gồm ba loại chính là khoáng vô cơ, khoáng hữu cơ và chất hữu cơ. Khoáng vô cơ là các khoáng vật hoặc đá vỡ vụn đã, đang bị phân hủy thành các khoáng vật thứ sinh. Khoáng hữu cơ chủ yếu là muối humat do chất hữu cơ sau khi phân hủy tạo thành. Chất hữu cơ là xác của động thực vật bị phân hủy do các vi sinh vật có trong đất. Ngoài ba thành phần chính trên, trong đất còn có nước, không khí, các sinh vật, hạt keo đất tác động tương hỗ với nhau tạo thành một hệ thống tương tác các vòng tuần hoàn của các nguyên tố dinh dưỡng như Nitơ, Photpho… Các nguyên tố hóa học trong đất tồn tại dưới dạng hợp chất vô cơ, hữu cơ có hàm lượng biến động và phụ thuộc vào quá trình hình thành đất. Thành phần hóa học của đất và đá mẹ ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành đất có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sau đó, thành phần hóa học của đất phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của đất, các quá trình hóa, sinh, lý trong đất và tác động của con người. Nước, không khí cũng là thành phần của phần lớn các loại đất. Không khí nằm trong các khoảng không gian rỗng giữa các hạt đất, nước nằm trong các khoản rỗng cũng như bề mặt hạt đất đã chiếm khoảng một nửa thể tích của đất. Cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong sự sinh trưởng của thực vật và các loại hình sự sống khác trong thiết diện đứng của đất trong một hệ sinh thái cụ thể. II.2. Tài nguyên đất Việt Nam: II.2.1. Tình hình sử dụng đất: Lãnh thổ Việt Nam có diện tích tự nhiên phần đất liền khoảng 33 triệu ha, trong đó khoảng 2/3 thuộc về miền núi và trung du, phần còn lại là đồng bằng châu thổ. Diện tích sông suối và núi đá khoảng 1.370.100ha (chiếm khoảng 4,16% diện tích đất tự nhiên), phần đất liền khoảng 31,2 triệu ha. Diện tích đất tự nhiên của Việt Nam đứng hàng thứ 58 trên thế giới nhưng vì dân số đông (85 triệu người, thống kê năm 2007) nên trung bình đất theo đầu người thấp, chỉ khoảng 0,1 ha/người, xếp thứ 159 và bằng 1/6 bình quân của thế giới - thuộc loại quốc gia nghèo tài nguyên đất. Diện tích đất canh tác vốn đã thấp nhưng lại giảm theo thời gian do sức ép tăng dân số, đô thị hoá, công nghiệp hoá và chuyển đổi mục đích sử dụng. Diện tích đất đã sử dụng theo các mục đích khác nhau và chưa sử dụng được trình bày dưới đây. Nghìn ha Tổng diện tích Đất đã giao và cho thuê Cả nước 33121,2 23763,8 Đất nông nghiệp 24696 21262,7 Đất lâm nghiệp 14514,2 11210 Đất nuôi trồng thuỷ sản 715,1 704,3 Đất làm muối 14,1 13,2 Đất phi nông nghiệp 3309,1 1390,5 Đất ở 611,9 606 Đất chuyên dùng 1433,5 509,4 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 12,9 12,7 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 97,2 81,8 Đất sông suối và mặt nước 1150,3 177,9 Đất phi nông nghiệp khác 3,4 2,8 Đất chưa sử dụng 5116 1110,5 Bảng 1. Hiện trạng đất ở Việt Nam năm 2007 (Nguồn: Tổng cục thống kê, 01/01/2007) Đất ở Việt Nam rất đa dạng về loại và phong phú về khả năng sử dụng, bao gồm 31 loại và 13 nhóm. Riêng ở khu vực miền núi với diện tích gần 25 triệu ha đã có 6 nhóm và 13 loại đất. Phụ thuộc vào địa hình và điều kiện tự nhiên cụ thể của từng vùng, miền mà đất có tại đó có những đặc điểm riêng biệt. II.2.2. Phân loại và đặc điểm của từng loại đất: Tùy vào từng vùng, từng khu vực mà có những loại đất khác nhau. Nhóm đất mùn thô trên núi cao: Trên đỉnh các dãy núi cao, khí hậu lạnh có tính chất của mùa đông ôn đới, các quá trình biến đổi sinh học diễn ra chậm, chất hữu cơ không phân phủy triệt để nên đã hình thành nhóm đất mùn trên núi cao. Đất này có tầng mỏng lẫn nhiều đá vụn nguyên sinh, trên bề mặt chỉ là một lớp bùn thô thường có màu đen hoặc màu xám. Nhóm đất này cần được sử dụng để phát triển rừng, tạo nguồn sinh thùy tốt cho những vùng đất thấp. Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi: Từ độ cao 2000m trở xuống đến 900m là nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi. Với điều kiện khí hậu lạnh giá, lại ở địa hình cao, dốc, nên nơi nào không còn rừng, đất thường bị xói mòn mạnh. Loại đất này có phản ứng chua vừa đến chua ít, lượng mùn khá nhưng nghèo lân tổng số và dễ tiêu. Nhóm đất đỏ vàng – feralít: Từ độ cao 900m đến vùng thấp 25m là nhóm đất đỏ vàng feralit. Đây là nhóm đất có diện tích lớn nhất, khoảng gần 20 triệu ha, được hình thành trên nhiều loại đá mẹ, phân bố rộng khắp các tỉnh trung du và miền núi cả nước. Trong nhóm này có đất đỏ badan là loại đất tốt nhất ở nước ta, phân bố chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên, Đồng Nai và rải rác ở một số tỉnh miền Trung. Đất này thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cà phê, cao su và chè. Nhóm đất phù sa: Ở vùng đồng bằng châu thổ có nhóm đất phù sa được hình thành do các con sông chuyển tải bồi đắp. Nước ta có hai đồng bằng lớn là Đồng bằng sông Hồng khoảng 1,4 triệu ha và Đồng bằng sông Cửu Long, khoảng 4 triệu ha, được hình thành do hoạt động của sông Hồng ở miền Bắc và sông Cửu Long ở miền Nam; các con sông này chuyển tải các sản phẩm rửa trôi từ thượng nguồn xuống bồi đắp dần. Về bản chất thổ nhưỡng, đất phù sa mang đặc tính xếp lớp, thành phần cơ giới nặng, hàm lượng mùn và N, P, K thuộc loại khá. Đất phù sa thuộc loại đất có độ phì nhiêu tự nhiên cao, thích hợp với lúa, rau màu và nhiều loại cây trồng khác. Nhóm đất mặn:   Dọc theo bờ biển có các nhóm đất mặn, khoảng 1 triệu ha; nhóm đất cát biển, khoảng 500.000ha và nhóm đất phèn, khoảng 2 triệu ha. Các nhóm đất này thường chứa các yếu tố hạn chế đối với cây trồng như hàm lượng muối cao, nghèo dinh dưỡng và chua, đòi hỏi người sử dụng phải hiểu biết sâu về bản chất đất để cải tạo thì mới sử dụng có hiệu quả. Ngoài ra, còn có nhiều nhóm đất khác với diện tích không lớn và phân bố rải rác khắp mọi vùng của đất nước. Nhóm đất phèn: Đất phèn là một loại hình đặc biệt tập trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long, những nơi khác có rất ít nên nhiều người dân ở khu vực phía Bắc hầu như không biết. Nhóm đất cát biển: Dọc bờ biển miền Trung có một dải đất đặc biệt về mặt thổ nhưỡng: dải đất cát ven biển. Đây là một loại đất nghèo, "cùng họ" với nhóm đất bạc màu. Đất cát biển có diện tích khoảng 538.430ha và được hình thành do quá trình phong hoá tại chỗ của trầm tích biển cũ hoặc trên đá mẹ giàu silíc (cát kết, liparít, granít,...) và bị cuốn trôi từ sản phẩm phong hoá của các vùng núi lân cận, mà ở miền Trung là dãy Trường Sơn. Đánh giá chung về tài nguyên đất Việt Nam thấy rằng, đất Việt Nam phong phú và đa dạng. Do ở trong vùng nhiệt đới ẩm gió mùa nên đất trồng được nhiều loại cây, một số nơi có thể trồng thêm nhiều vụ. Cũng do khí hậu nhiệt đới ẩm mà đất dễ bị xói mòn, mùn trong đất dễ bị khoáng hóa, các chất dinh dưỡng dễ bị hòa tan và rửa trôi nhanh nên đất thoái hóa nhanh, khiến cho đất xấu nhiều hơn đất tốt. Tài nguyên đất Việt Nam (đất rừng và đất nông nghiệp) là rất có hạn, vì vậy những năm gần đây vấn đề khai thác sử dụng cải tạo và bảo vệ đất đã trở thành vấn đề quan tâm lớn, vấn đề chiến lược trong hoàn cảnh thế giới thiếu hụt về lương thực và sự gia tăng dân số nhanh chóng như hiện nay. Do quá trình đô thị hóa và sự phát triển của nền kinh tế thị trường, những vùng đất màu mỡ và tốt nhất trở thành nơi có mật độ dân số cao và tốc độ xây dựng nhà ở lớn, kéo theo đó là những vấn đề nan giải cho bài toán phát triển cân đối giữa kinh tế - xã hội và môi trường. II.3.Tổng quan đồng bằng sông Cửu Long: II.3.1. Lịch sử hình thành đồng bằng: Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được tạo ra bởi phù sa sông Cửu Long ít nhất là từ 6000 năm trước đây. Con người định cư ở đồng bằng sông Cửu Long từ lâu đời, bắt đầu được biết đến từ thời Phù Nam cách đây khoảng hai ngàn năm qua di chỉ Óc Eo ở Long Xuyên và Kiên Giang. Từ những năm đầu khẩn hoang, khai thác ĐBSCL, lưu dân đã biến đất rừng thiên nhiên giữa các sông rạch thành đất định cư và canh tác. Với vùng đất phì nhiêu, màu mỡ ở đây, đân số lần lần tăng nhanh kéo theo sự nới rộng đất ruộng canh tác. Dân phát triển định cư lấn rừng tràm, vùng nước ngập (wetlands). Trong lịch sử phát triển thì đa số thành phố gần sông và từ đó đến nay phát triển ra các vùng khác còn hoang sơ. Vào những năm cuối thế kỷ 19, miền Nam còn nhiều rừng rậm, dân cư vẫn còn thưa thớt. Các thú vật như hổ, bò tót, nai... còn nhiều và hiện diện từ Đồng Nai, Gia Định đến Sóc Trăng, Bạc Liêu. Đến nay đã hình thành một vùng đồng bằng rộng lớn và trù phú, tạo nên vựa lúa của cả nước. II.3.2. Vị trí địa lý: ĐBSCL có vị trí như một bán đảo với 3 mặt Đông, Nam và Tây Nam giáp biển (có đường bở biển dài 700km), phía Tây có đường biên giới giáp với Campuchia và phía Bắc giáp với vùng kinh tế Đông Nam Bộ - vùng kinh tế lớn nhất của Việt Nam hiện nay. ĐBSCL nằm trên địa hình tương đối bằng phẳng, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch phân bố rất dày thuận lợi cho giao thông thủy vào bậc nhất ở nước ta. II.3.3. Điều kiện tự nhiên: Đồng bằng sông Cửu Long là một bộ phận của châu thổ sông Mê Kông có diện tích tự nhiên là 4.060.400 ha (khoảng 12 % diện tích Việt Nam), có bờ biển từ Đông sang Tây dài trên 740 km với hải phận trên biển 360.000 km2. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo sự hình thành những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông lẫn dọc theo một số giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên – Hà Tiên, tây nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau. Dưới những ảnh hưởng của môi trường biển và nước lợ, thực vật rừng ngập mặn dày đặc đã bao phủ toàn vùng này, chủ yếu là những cây đước và mắm. Những thực vật chịu mặn này đã tạo thuận lợi cho việc giữ lại các vật liệu lắng tụ, làm giảm sự xói mòn do nước hoặc gió, và cung cấp sinh khối cho trầm tích châu thổ, và rồi những đầm lầy biển được hình thành. Tại vùng này, cách đây 5.500 năm trước công nguyên, trầm tích lắng tụ theo chiều dọc dưới điều kiện mực nước biển dâng cao đã hình thành những cánh đồng rộng lớn mang vật liệu sét. Sự lắng tụ kéo dài của các vật liệu trầm tích bên dưới những cánh rừng Đước dày đặc đã tích lũy dần để hình thành một địa tầng chứa nhiều vật liệu sinh phèn. Mực nước biển dâng cao, bao phủ cả vùng như thế hầu như hơi không ổn định và bắt đầu có sự giảm xuống cách đây vào khoảng 5.000 năm. Sự hạ thấp mực nước biển dẫn đến việc hình thành một mực nước biển mới, sau mỗi giai đoạn như thế thì có một bờ biển mới được hình thành, và cuối cùng hình thành nên những vạt cồn cát chạy song song với bờ biển hiện tại mà người ta thấy ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một cồn cát chia cắt vùng Đồng Tháp Mười và vùng trầm tích phù sa được xác định bằng C14 cho thấy có tuổi tuyệt đối vào khoảng 4.500 năm. Sự hạ dần của mực nước kèm theo những thay đổi về môi trường trong vùng đầm lầy biển, mà ở đây những thực vật chịu mặn mọc dầy đặc được thay thế bởi những loài thực vật khác của môi trường nước ngọt như tràm và những loài thực thực vật hoang dại khác . Sự ổn định của mực nước biển dẫn đến một sự bồi lắng trầm tích ven biển khá nhanh với vật liệu sinh phèn thấp hơn. Sự tham gia của sông Cửu Long đóng vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình hình thành vùng châu thổ. Lượng nước trung bình hàng năm của sông này cung cấp vào khoảng 4.000 tỷ m³ nước và vào khoảng 100 triệu tấn vật liệu phù sa, những mảnh vỡ bị bào mòn từ lưu vực sông, mặc dù một phần có thể dừng lại tạm thời dọc theo hướng chảy, cuối cùng được mang đến cửa sông và được lắng tụ như một châu thổ. Những vật liệu sông được lắng tụ dọc theo sông để hình thành những đê tự nhiên có chiều cao 3–4 m, và một phần của những vật liệu phù sa phủ lên trên những trầm tích pyrit thời kỳ Holocen với sự biến thiên khá rộng về độ dầy tầng đất vùng và không gian vùng. Các con sông nằm được chia cắt với trầm tích đê phù sa nhưng những vùng rộng lớn mang vật liệu trầm tích biển chứa phèn tiềm tàng vẫn còn lộ ra trong vùng đầm lầy biển. Tuy nhiên, độ chua tiềm tàng không xuất hiện trong vùng phụ cận của những nhánh sông gần cửa sông mà tại đây ảnh hưởng rửa bởi thủy triều khá mạnh. Ngược lại, vùng châu thổ sông Sài Gòn, nằm kế bên hạ lưu châu thổ sông Mekong, được biểu thị bởi một tốc độ bồi lắng ven biển khá chậm do lượng vật liệu phù du trong nước sông khá thấp và châu thổ này bị chia cắt bởi nhiều nhánh sông thủy triều và do bởi những vành đai thực vật chịu mặn thì rộng lớn hơn vành đai này ở vùng châu thổ sông Mekong, và kết quả là trầm tích của chúng chứa nhiều axít tiềm tàng. Hình 1. Đồng bằng sông Cửu Long Khí hậu: ĐBSCL nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm. Một năm có hai mùa mưa và mùa nắng phân biệt. Mùa mưa kéo dài khoảng 5 tháng, tương ứng với chủ yếu thời kỳ gió mùa Tây Nam, mưa lớn xảy ra khi các luồng áp thấp nhiệt đới xuất hiện trên lục địa Châu Á, thường bắt đầu vào cuối tháng 4 đầu tháng 5 và chấm dứt vào cuối tháng 11 hằng năm. Bảy tháng còn lại trong năm là mùa khô, thời kỳ này gió mùa Đông Bắc lại chiếm ưu thế do sự hiện diện của các trung tâm áp cao từ vùng Siberi - Mông Cổ di chuyển xuống. Lượng mưa trong mùa khô rất ít, chỉ chiếm khoảng 5 - 10% so với tổng lượng mưa trong cả năm.Lượng mưa trung bình ở ĐBSCL biến động trong khoảng 1.400 - 2.200 mm/năm. Nguồn nước: Đồng bằng sông Cửu Long nhận nước ngọt từ dòng sông Mekong và nước mưa. Cả hai nguồn nước này đều đặc trưng theo mùa một cách rõ rệt, dồi dào vào mùa mưa và hạn chế khi khô hạn. Lượng nước bình quân của sông Mekong chảy qua đồng bằng sông Cửu Long hơn 460 tỉ m3, mang theo hơn 200 triệu tấn phù sa, tạo nên một đồng bằng Sông Cửu Long trù phú và phì nhiêu. Đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống kênh rạch chằng chịt lớn nhỏ thuận lợi cho giao thông thủy và cung cấp nước ngọt quanh năm cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp của vùng. Vào mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau) sông Mekong là nguồn cung cấp nước mặt duy nhất. Mùa mưa, lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 2400mm ở phía tây đồng bằng đến 1300mm tại vùng đồng bằng trung tâm và khoảng 1600mm ở vùng phía đông đồng bằng. Cũng vào mùa mưa thường có lũ xảy ra vào tháng 9, còn gọi là mùa nước nổi, một đặc điểm thú vị của đồng bằng. Thủy triều ven biển ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long là bộ phận cuối cùng ở lưu vực sông Mekong tiếp giáp với biển nên chế độ nước ở đây chịu ảnh hưởng lớn của thủy triều. Căn cứ vào đặc điểm hình thành và diễn biến của thủy triều, ta có thể chia vùng biển ĐBSCL ra làm 2 đoạn và lấy mũi Cà Mau làm điểm trung gian: a. Khu vực biển Đông Kéo dài từ Vũng Tàu đến mũi Cà Mau, dài 400 km chịu ảnh hưởng rõ rệt theo chế độ thủy triều bán nhật triều không đều, biên độ triều khá lớn trên 2 m, đạt tối đa 3,5 m, đặc biệt trong chu kỳ triều Maton (chu kỳ 19 năm) có thể lên đến 4 - 4,2 m. Tuy vậy, triều biển Đông cũng chịu một phần ảnh hưởng triều biển Tây từ vịnh Thái Lan (bán nhật triều không đều) nhất là đoàn càng đi về phía Cà Mau. Mỗi ngày có 2 lần triều lên và 2 lần triều xuống nhưng biên độ triều trong 2 lần khác nhau. Trong mỗi chu kỳ 1/2 tháng, thấy rõ sự chênh lệnh đáng kể về biên độ kỳ nước cường. Nước lớn thường xảy ra vào những ngày mồng 2 đấn mồng 3 âm lịch, hoặc ngày 18 - 19 âm lịch. Nước kém xảy ra vào thời gian giữa 2 kỳ nước cường (ngày mồng 7 - 8 âm lịch hoặc 20 - 21 âm lịch). Các đặc trưng này xảy ra đều đặn suốt chiều dài 300 km dọc bờ biển, chỉ riêng đoạn gần đến mũi Cà Mau thì mới có sự biến động
Luận văn liên quan