Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu các thuật ngữ sau:
« Phá sản doanh nghiệp» là thuật ngữ vừa chỉ tình trạng một con nợ không có khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn vừa chỉ thủ tục xử lý phá sản nhằm giải quyết
tình trạng khó khăn đó trên cơ sở một quyết định của cơ quan hành chính hoặc của
tòa án. Hiện nay, nghĩa thứ hai của thuật ngữ này không còn được sử dụng trong pháp
luật hiện đại đặc biệt là trong pháp luật Pháp. Thay vì sử dụng thuật ngữ "phá sản",
người ta thường sử dụng các thuật ngữ khác như « thủ tục giải quyết tình trạng mất
khả năng thanh toán», « phục hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp » hoặc « thủ tục giải
quyết nợ tập thể ». Hiện nay thuật ngữ này còn mang một ý nghĩa mới, nó chỉ một
biện pháp áp dụng đối với cá nhân chủ doanh nghiệp, theo đó chủ doanh nghiệp sẽ
không được phép tham gia hoạt động thương mại hoặc tham gia lãnh đạo doanh
nghiệp. Tuy nhiên, tư pháp quốc tế vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ "phá sản" bởi vì
thuật ngữ này đơn giản và dễ được thừa nhận ở nước ngoài.
Theo nghĩa hẹp, phá sản « có yếu tố nước ngoài » là trường hợp con nợ bị lâm vào
tình trạng phá sản có tài sản ở nhiều nước. Theo nghĩa rộng, thuật ngữ « phá sản có
yếu tố nước ngoài » được sử dụng đối với những trường hợp phá sản mà có bất kỳ yếu
tố nước ngoài nào như: doanh nghiệp có hoạt động ở ngoài lãnh thổ quốc gia dù cho
hoạt động đó không có sự hỗ trợ của tài sản hoặc trường hợp chủ nợ của doanh
nghiệp ở nước ngoài.
Tư pháp quốc tế về phá sản rất phức tạp. Những thay đổi của ngành luật này trong
thời gian vừa qua không làm cho nó đơn giản hơn.
Trước hết, phức tạp bởi vì nguồn của tư pháp quốc tế về phá sản rất phức tạp. Ví dụ:
trong pháp luật Pháp, nguồn của ngành luật này rất nhiều, cụ thể:
Án lệ : Cho đến thời gian gần đây, án lệ, đặc biệt là án lệ của Tòa án Tư pháp tối
cao (Tòa dân sự và thương mại) gần như là nguồn chủ yếu của tư pháp quốc tế về phá
sản doanh nghiệp. Xuất hiện nhiều ở thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, sau một thời gian
vắng bóng, đến giữa những năm 1980, án lệ lấy lại vị trí của mình. Trong pháp luật
Pháp, án lệ tạo thành các quy định chung của tư pháp quốc tế về phá sản.
Các văn bản pháp luật trong nước: Ở Pháp, có rất ít văn bản pháp luật về vấn đề
này. Nhìn chung, nhà làm luật của Pháp ít khi đề cập đến những vấn đề có tính chất
kỹ thuật liên quan đến những xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền xét xử về
phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng có một số văn bản trong lĩnh vực này như điều
52, khoản 2 Luật ngày 25 tháng 1 năm 1985 về thủ tục phục hồi và thanh lý doanh
nghiệp, đã được pháp điển hóa thành điều L. 621-44 Bộ luật Thương mại về các
khoản nợ bằng ngoại tệ hoặc điều 1, khoản 1 Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1985
hướng dẫn thi hành Luật năm 1985. Nghị định này quy định cụ thể các tiêu chí xác
định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án trong nước trong việc mở thủ tục giải quyết
phá sản tại Pháp, thực tế đó cũng là thẩm quyền quốc tế của Tòa án.
Các văn bản của Liên minh Châu Âu: Nước Pháp là một thành viên của Liên minh
Châu Âu
Với tư cách đó, trước hết nước Pháp chịu sự điều chỉnh của Nghị định (CE) số
1346/2000 của Hội đồng Liên minh Châu Âu ngày 29 tháng 5 năm 2000 về thủ tục
giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán, áp dụng từ ngày 31 tháng 5 năm 2002
đối với các nước thành viên của Liên mình Châu Âu trừ Đan Mạch. Nghị định của Liên
minh Châu Âu được áp dụng trực tiếp tại các nước thành viên mà không cần qua thủ
tục chuyển hóa vào pháp luật quốc gia. Theo phụ lục A của Nghị định, thủ tục thanh lý
và phục hồi doanh nghiệp có thể được thực hiện ở Pháp. Trong trường hợp tiến hành
phục hồi doanh nghiệp tại Pháp thì phải chỉ định một người điều hành thủ tục.
Cũng với tư cách là thành viên Liên minh Châu Âu, nước Pháp nằm trong đối tượng
điều chỉnh của các Chỉ thị của Liên minh Châu Âu (Luật khung). Đối với các Chỉ thị của
Liên minh Châu Âu, nước Pháp phải tiến hành chuyển hóa vào nội luật. Trong lĩnh vực
phá sản, có nhiều văn bản quy định riêng đối với từng loại doanh nghiệp:
Chỉ thị số 2001/17 (CE) ngày 19 tháng 3 năm 2001 về thủ tục phục hồi và thanh lý
doanh nghiệp bảo hiểm. Chỉ thị này được chuyển hóa vào nội luật bằng Pháp lệnh số
2004-504 ngày 7 tháng 6 năm 2004 và Nghị định số 2005-8 ngày 5 tháng 1 năm
2005.
14 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2231 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu các thuật ngữ sau:
« Phá sản doanh nghiệp» là thuật ngữ vừa chỉ tình trạng một con nợ không có khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn vừa chỉ thủ tục xử lý phá sản nhằm giải quyết
tình trạng khó khăn đó trên cơ sở một quyết định của cơ quan hành chính hoặc của
tòa án. Hiện nay, nghĩa thứ hai của thuật ngữ này không còn được sử dụng trong pháp
luật hiện đại đặc biệt là trong pháp luật Pháp. Thay vì sử dụng thuật ngữ "phá sản",
người ta thường sử dụng các thuật ngữ khác như « thủ tục giải quyết tình trạng mất
khả năng thanh toán», « phục hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp » hoặc « thủ tục giải
quyết nợ tập thể ». Hiện nay thuật ngữ này còn mang một ý nghĩa mới, nó chỉ một
biện pháp áp dụng đối với cá nhân chủ doanh nghiệp, theo đó chủ doanh nghiệp sẽ
không được phép tham gia hoạt động thương mại hoặc tham gia lãnh đạo doanh
nghiệp. Tuy nhiên, tư pháp quốc tế vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ "phá sản" bởi vì
thuật ngữ này đơn giản và dễ được thừa nhận ở nước ngoài.
Theo nghĩa hẹp, phá sản « có yếu tố nước ngoài » là trường hợp con nợ bị lâm vào
tình trạng phá sản có tài sản ở nhiều nước. Theo nghĩa rộng, thuật ngữ « phá sản có
yếu tố nước ngoài » được sử dụng đối với những trường hợp phá sản mà có bất kỳ yếu
tố nước ngoài nào như: doanh nghiệp có hoạt động ở ngoài lãnh thổ quốc gia dù cho
hoạt động đó không có sự hỗ trợ của tài sản hoặc trường hợp chủ nợ của doanh
nghiệp ở nước ngoài.
Tư pháp quốc tế về phá sản rất phức tạp. Những thay đổi của ngành luật này trong
thời gian vừa qua không làm cho nó đơn giản hơn.
Trước hết, phức tạp bởi vì nguồn của tư pháp quốc tế về phá sản rất phức tạp. Ví dụ:
trong pháp luật Pháp, nguồn của ngành luật này rất nhiều, cụ thể:
Án lệ : Cho đến thời gian gần đây, án lệ, đặc biệt là án lệ của Tòa án Tư pháp tối
cao (Tòa dân sự và thương mại) gần như là nguồn chủ yếu của tư pháp quốc tế về phá
sản doanh nghiệp. Xuất hiện nhiều ở thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, sau một thời gian
vắng bóng, đến giữa những năm 1980, án lệ lấy lại vị trí của mình. Trong pháp luật
Pháp, án lệ tạo thành các quy định chung của tư pháp quốc tế về phá sản.
Các văn bản pháp luật trong nước: Ở Pháp, có rất ít văn bản pháp luật về vấn đề
này. Nhìn chung, nhà làm luật của Pháp ít khi đề cập đến những vấn đề có tính chất
kỹ thuật liên quan đến những xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền xét xử về
phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng có một số văn bản trong lĩnh vực này như điều
52, khoản 2 Luật ngày 25 tháng 1 năm 1985 về thủ tục phục hồi và thanh lý doanh
nghiệp, đã được pháp điển hóa thành điều L. 621-44 Bộ luật Thương mại về các
khoản nợ bằng ngoại tệ hoặc điều 1, khoản 1 Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1985
hướng dẫn thi hành Luật năm 1985. Nghị định này quy định cụ thể các tiêu chí xác
định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án trong nước trong việc mở thủ tục giải quyết
phá sản tại Pháp, thực tế đó cũng là thẩm quyền quốc tế của Tòa án.
Các văn bản của Liên minh Châu Âu: Nước Pháp là một thành viên của Liên minh
Châu Âu
Với tư cách đó, trước hết nước Pháp chịu sự điều chỉnh của Nghị định (CE) số
1346/2000 của Hội đồng Liên minh Châu Âu ngày 29 tháng 5 năm 2000 về thủ tục
giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán, áp dụng từ ngày 31 tháng 5 năm 2002
đối với các nước thành viên của Liên mình Châu Âu trừ Đan Mạch. Nghị định của Liên
minh Châu Âu được áp dụng trực tiếp tại các nước thành viên mà không cần qua thủ
tục chuyển hóa vào pháp luật quốc gia. Theo phụ lục A của Nghị định, thủ tục thanh lý
và phục hồi doanh nghiệp có thể được thực hiện ở Pháp. Trong trường hợp tiến hành
phục hồi doanh nghiệp tại Pháp thì phải chỉ định một người điều hành thủ tục.
Cũng với tư cách là thành viên Liên minh Châu Âu, nước Pháp nằm trong đối tượng
điều chỉnh của các Chỉ thị của Liên minh Châu Âu (Luật khung). Đối với các Chỉ thị của
Liên minh Châu Âu, nước Pháp phải tiến hành chuyển hóa vào nội luật. Trong lĩnh vực
phá sản, có nhiều văn bản quy định riêng đối với từng loại doanh nghiệp:
Chỉ thị số 2001/17 (CE) ngày 19 tháng 3 năm 2001 về thủ tục phục hồi và thanh lý
doanh nghiệp bảo hiểm. Chỉ thị này được chuyển hóa vào nội luật bằng Pháp lệnh số
2004-504 ngày 7 tháng 6 năm 2004 và Nghị định số 2005-8 ngày 5 tháng 1 năm
2005.
Chỉ thị số 2001/24 (CE) ngày 4 tháng 4 năm 2001 về thủ tục phục hồi và thanh lý các
cơ sở tín dụng. Chỉ thị này được chuyển hóa vào nội luật bằng Pháp lệnh số 2004-
1127 ngày 21 tháng 10 năm 2004.
Các Công ước quốc tế. Hiện nay, chưa có công ước đa phương nào trong lĩnh vực phá
sản doanh nghiệp, chỉ có 4 Hiệp định song phương mà nước Pháp đã ký kết trong đó
có một số quy định cụ thể về phá sản. Ba trong số 4 Hiệp định đó gần như đã được
thay thế bởi Nghị định số 1346/2000 (3 Hiệp định đó gồm: Hiệp định Pháp-Bỉ, ngày 8
tháng 7 năm 1899, Hiệp định Pháp-Ý ngày 3 tháng 6 năm 1930 gồm 2 Thỏa thuận
hợp tác tư pháp có nội dung rộng hơn trong đó có vấn đề phá sản doanh nghiệp, Hiệp
định Pháp-Áo ngày 27 tháng 2 năm 1979 chỉ xử lý vấn đề phá sản doanh nghiệp).
Hiệp định thứ 4 ngày 15 tháng 9 năm 1950 được ký kết giữa Pháp và Monaco cũng chỉ
xử lý vấn đề phá sản doanh nghiệp.
Ngược lại, luật mẫu về tình trạng mất khả năng thanh toán có yếu tố nước ngoài do
Ủy ban của Liên Hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) soạn thảo và được
thông qua ngày 30 tháng 5 năm 1997 không có ảnh hưởng đối với pháp luật Pháp.
Tư pháp quốc tế về phá sản doanh nghiệp rất phức tạp còn bởi các quan điểm về vấn
đề này thường đối lập nhau và việc lựa chọn một quan điểm nào đó không phải là một
việc dễ dàng. Trong lĩnh vực này, xét về hệ quả pháp lý của thủ tục phá sản hiện có 2
quan điểm đối lập nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng thủ tục phá sản doanh nghiệp mang tính thống nhất
và có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu. Theo quan điểm này chỉ cần mở 1 thủ tục phá
sản tại trụ sở chính của doanh nghiệp mắc nợ và thủ tục này sẽ có hiệu lực ở tất cả
những nơi mà doanh nghiệp mắc nợ có tài sản mà không cần phải mở thêm thủ tục
phá sản tại những nơi đó.
Quan điểm thứ hai cho rằng thủ tục phá sản doanh nghiệp mang tính lãnh thổ.
Theo quan điểm này, cần phải mở thủ tục phá sản doanh nghiệp tại tất cả các nước
nơi có tài sản của doanh nghiệp.
Dĩ nhiên, không có quốc gia nào chỉ đơn thuần áp dụng một cơ chế duy nhất mà
thường có sự kết hợp nhiều loại cơ chế trung gian, ví dụ như cơ chế được quy định tại
Nghị định số 1346/2000 của Liên minh Châu Âu với sự kết hợp hai cơ chế nêu trên,
theo đó có thể mở một thủ tục chính tại một nước và nhiều thủ tục phụ tại nhiều nước
khác để giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
I. MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Đây là vấn đề chủ yếu được tư pháp quốc tế quan tâm.
Thẩm quyền của Tòa án của mỗi quốc gia trong việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp
được xác định theo 2 cơ chế: cơ chế thẩm quyền trực tiếp (Tòa án trực tiếp thụ lý đơn
giải quyết vụ phá sản) và cơ chế thẩm quyền gián tiếp (thông qua thủ tục công nhận
và cho thi hành quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp của Tòa án
nước ngoài).
A. MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN THEO CƠ CHẾ THẨM QUYỀN TRỰC TIẾP
Thẩm quyền trực tiếp của Tòa án trong việc quyết định mở thủ tục phá sản doanh
nghiệp được xác định theo 2 loại tiêu chí. Theo quan điểm của pháp luật quốc tế, đặc
biệt là theo tập quán quốc tế, loại tiêu chí thứ nhất được coi là tiêu chí cơ bản và
không phải bàn cãi về tính phổ biến của nó (a). Các tiêu chí khác là tiêu chí phụ và
còn có nhiều vấn đề cần làm rõ(b).
a. Tiêu chí cơ bản: Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi có trụ sở chính của doanh
nghiệp
Như chúng ta đã xem xét trong phần dẫn đề, quan điểm cho rằng thủ tục giải quyết
phá sản có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu được xây dựng dựa trên tiêu chí này. Thực
vậy, dường như trong mọi trường hợp, thủ tục phá sản đều có thể mở tại nước có trụ
sở chính của doanh nghiệp, tức là tại nơi doanh nghiệp mắc nợ thực sự quản lý lợi
nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh, do đó doanh nghiệp mắc nợ có thể đưa ra
được những chứng cứ về những lợi nhuận đó.
Tiêu chí này được quy định trong tư pháp quốc tế của Cộng hòa Pháp để xác định
thẩm quyền của Tòa án Pháp đối với việc mở thủ tục phục hồi hoặc thanh lý doanh
nghiệp cả đối với thủ tục thuần túy trong nước và thủ tục phá sản có yếu tố nước
ngoài. Theo điều 1 khoản 1 Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1980: "Trên phương diện
lãnh thổ, tòa án có thẩm quyền mở thủ tục phục hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp là tòa
án nơi doanh nghiệp mắc nợ có trụ sở chính". Do đó, nếu không trái với trường hợp
quy định tại phần b sau đây thì chúng ta có thể suy ra rằng nếu doanh nghiệp mắc nợ
có trụ sở chính tại nước Pháp thì tòa án Pháp có thẩm quyền mở thủ tục phục hồi hoặc
thanh lý đối với doanh nghiệp mắc nợ.
Tiêu chí này cũng được quy định trong Nghị định số 1346/2000 nhưng dưới một hình
thức khác. Điều 3 Nghị định này quy định: "Tòa án của nước thành viên có thẩm
quyền mở thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán là tòa án nơi tập
trung những lợi ích chính của doanh nghiệp mắc nợ". Cũng theo điều khoản này, nơi
đặt trụ sở chính hoặc nơi tập trung các lợi ích chính của công ty hoặc pháp nhân được
xác định theo điều lệ. Điều này cũng được công nhận trong án lệ của Pháp. Tuy nhiên,
nơi đặt trụ sở hoặc nơi tập trung các lợi ích chính xác định theo điều lệ chỉ là một suy
đoán đơn giản và có thể bị phản bác nếu có chứng cứ ngược lại chứng minh rằng trụ
sở được quy định trong điều lệ là không có thật và "tất cả hoặc hầu như tất cả các
hoạt động của công ty đều thực hiện ở một nơi khác" (theo một bản án của Tòa án Tư
pháp tối cao). Chúng ta cũng thường gặp khó khăn khi xác định trụ sở chính thực tế
của nhóm công ty bởi lẽ trên phương diện pháp lý, các công ty con trong tập đoàn là
những pháp nhân hoàn toàn độc lập quan hệ với nhau thông qua các mối quan hệ về
tiền vốn. Tuy nhiên, do tất cả các công ty con nằm dưới sự quản lý của công ty mẹ
cho nên chỉ có trụ sở chính của công ty mẹ được coi là trụ sở chính thực tế. Điều này
còn gây nhiều tranh cãi. Chúng ta sẽ xem xét trường hợp này trong phần sau.
b. Các tiêu chí phụ
Một số tiêu chí có thể được chấp nhận, một số khác thì ít được chấp nhận hơn.
o Điều 1, khoản 1 Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1985 nói trên cho phép mở thủ
tục phá sản trên lãnh thổ Pháp, nếu lãnh thổ Pháp là nơi "tập trung các lợi ích chủ yếu
của doanh nghiệp mắc nợ ". Nếu đọc sơ qua thì có thể tưởng rằng quy định này giống
với quy định trong Nghị định số 1346/2000 nhưng thực chất đây là hai khái niệm hoàn
toàn khác nhau. Trong Nghị định của Liên minh Châu Âu đề cập đến nơi tập trung các
lợi ích chính, tức là trụ sở chính trong khi đó theo Nghị định ngày 27 tháng 12 năm
1985 thì nơi tập trung các lợi ích chủ yếu tương ứng với cơ sở chính đặt tại Pháp. Ví
dụ, doanh nghiệp không có trụ sở chính ở Pháp mà chỉ đặt một cơ sở thứ hai ở đó. Về
mặt pháp lý, cơ sở thứ hai này khá độc lập, có ban lãnh đạo và một đội ngũ nhân viên
cho phép nó có thể tiến hành đàm phán với các bên thứ 3. Theo quan điểm cho rằng
thủ tục phá sản doanh nghiệp mang tính lãnh thổ thì có thể mở thủ tục phá sản tại nơi
doanh nghiệp có cơ sở thứ hai nếu việc này nhằm đáp ứng nhu cầu bảo vệ lợi ích của
quốc gia hoặc, theo quan điểm hiện đại hơn, để đơn giản hóa thủ tục thanh lý các tài
sản nằm tại nhiều nước khác nhau.
Với mục đích đó, Nghị định 1346/2000 (điều 3.2° và các điều tiếp theo) quy định việc
mở các thủ tục, còn gọi là các thủ tục phụ hoặc các thủ tục có hiệu lực trong phạm vi
lãnh thổ tại các nước mà doanh nghiệp mắc nợ có cơ sở thứ hai, tức là tại các nước
khác ngoài nước nơi tập trung các lợi ích chính hoặc nơi có trụ sở chính.
o Trong tình hình phát triển mạnh mẽ hiện nay, pháp luật Pháp còn chấp nhận
trường hợp mở thủ tục phá sản trong phạm vi lãnh thổ Pháp nếu doanh nghiệp mắc nợ
chỉ có tài sản riêng lẻ ở Pháp hoặc nếu doanh nghiệp mắc nợ có quan hệ hợp đồng ở
Pháp, thậm chí nếu các bên (doanh nghiệp mắc nợ và chủ nợ) có quốc tịch Pháp.
Trường hợp cuối cùng được chấp nhận trên cơ sở áp dụng điều 14 và 15 Bộ luật Dân
sự Pháp. Hai điều luật này tạo ra đặc quyền về thẩm quyền xét xử. Các điều kiện cho
phép mở thủ tục giải quyết phá sản nói trên không giống với các điều kiện trong
trường hợp mở thủ tục phụ giải quyết phá sản quy định tại Nghị định 1346/2000 do đó
các trường hợp này không được đưa vào phạm vi áp dụng của Nghị định nêu trên. Hơn
nữa, các điều kiện này cũng không phù hợp với cơ chế mở thủ tục giải quyết phá sản
thứ hai: công nhận và cho thi hành quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản do Tòa
án nước ngoài tuyên.
B. THẨM QUYỀN GIÁN TIẾP: VIỆC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH CỦA
TÒA ÁN NƯỚC NGOÀI MỎ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
Theo quan điểm cho rằng thủ tục phá sản có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu, khi thủ
tục phá sản được mở ở một nước thì liệu thủ tục đó có thể có hiệu lực đối với tất cả
các nước khác thông qua cơ chế công nhận và cho thi hành quyết định mở thủ tục giải
quyết phá sản đó?
a. Tư pháp quốc tế của Pháp mới đây đã chấp nhận quan niệm về hiệu lực toàn cầu
của quyết định mở thủ tục phá sản trong bản án Banque Worms nổi tiếng ngày 19
tháng 11 năm 2002. Lần đầu tiên, bản án này tuyên:
"Căn cứ nguyên tắc hiệu lực toàn cầu của thủ tục giải quyết phá sản…
… Nếu không trái với các điều ước quốc tế hoặc các văn bản của Liên minh Châu Âu và
phù hợp với trật tự pháp luật của các nước khác thì thủ tục phục hồi doanh nghiệp
được mở tại Pháp có hiệu lực ở tất cả những nơi mà doanh nghiệp mắc nợ có tài sản
…"
Phản ứng của các cơ quan chức năng nước ngoài về vấn đề này là điều tất yếu. Họ có
thể không thừa nhận hiệu lực của quyết định mở thủ tục phá sản của Toà án Pháp trên
lãnh thổ nước mình ngay cả khi trụ sở chính của doanh nghiệp đặt tại Pháp. Trong khi
đó, về lý thuyết quyết định mở thủ tục phá sản đó có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu.
Ngược lại, án lệ của Pháp luôn luôn thừa nhận hiệu lực tại Pháp của các quyết định mở
thủ tục giải quyết phá sản của Toà án nước ngoài thông qua thủ tục công nhận và thi
hành quyết định, bản án của tòa án nước ngoài trên nước Pháp, với những điều kiện
được đánh giá tuỳ từng trường hợp cụ thể. Bản án Banque Worms chỉ có thể củng cố
thêm quan điểm này là một quan điểm có lợi cho giao lưu, hợp tác quốc tế.
Trở ngại duy nhất đối với việc công nhận quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản của
tòa án nước ngoài xuất hiện trong trường hợp một thủ tục giải quyết phá sản khác
cũng đồng thời được mở tại Pháp. Tòa Thương mại Tòa án Tư pháp tối cao của Pháp đã
ngầm khẳng định điều này trong bản án ngày 11 tháng 4 năm 1995 liên quan đến vụ
phá sản của ngân hàng BCCI Overseas: "Quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản
của Toà án nước ngoài chỉ cản trở việc mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp đó tại Pháp
trong trường hợp quyết định mở thủ tục phá sản đó được mặc nhiên thừa nhận trên cơ
sở một Hiệp định hoặc có thủ tục công nhận và thi hành trên lãnh thổ Pháp đối với
quyết định đó…". Nếu không có quy định nào khác trong các công ước quốc tế hoặc
trong các văn bản pháp luật của Liên minh Châu Âu thì quy định này có nghĩa là nếu
một thủ tục giải quyết phá sản đối với 1 doanh nghiệp đã được mở ở Pháp thì sau đó
sẽ không chấp nhận thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định mở thủ tục phá sản
của tòa án nước ngoài đối với cùng doanh nghiệp đó vì việc thực hiện cả hai quyết
định này bị coi là không thể dung hòa được.
Ngược lại, việc kiểm tra những điều kiện khác về công nhận các bản án của tòa án
nước ngoài không có gì đặc biệt. Cụ thể, các tòa án của Pháp hầu như không viện dẫn
quan điểm về trật tự công quốc tế, trước đây được sử dụng làm căn cứ không công
nhận quyết định về phá sản doanh nghiệp của toà án nước ngoài. Chính vì vậy, toà án
Pháp đã công nhận quyết định mở thủ tục phá sản của một người không phải là
thương nhân của toà án nước ngoài. Pháp luật Pháp hiện nay và trong tương lai ngày
càng thừa nhận nhiều trường hợp toà án nước ngoài mở thủ tục phá sản đối với một
người không phải là thương nhân hoặc thừa nhận các trường hợp giải quyết phá sản
mà thời gian thử thách lớn hơn 18 tháng là thời gian được quy định trong pháp luật
của Cộng hòa Pháp.
Về hiệu lực theo thời gian của quyết định công nhận và cho thi hành trên lãnh thổ
Pháp quyết định của tòa án nước ngoài, nhận thức được khó khăn phát sinh do có một
khoảng thời gian tương đối dài giữa thời điểm bản án nước ngoài được tuyên và việc
công nhận, thi hành nó trên nước Pháp, cho nên Tòa án Tư pháp tối cao đã cho phép
quyết định công nhận và cho thi hành trên lãnh thổ Pháp quyết định của tòa án nước
ngoài có hiệu lực hồi tố. Điều này được thể hiện trong bản án Kléber ngày 25 tháng 2
năm 1986. Trong vụ việc này, một toà án ở Đan Mạch ra quyết định mở thủ tục giải
quyết phá sản đối với doanh nghiệp mắc nợ và doanh nghiệp đó có một bất động sản
ở Pháp, chủ nợ muốn kê biên tài sản đó trong khoảng thời gian sau khi có quyết định
của tòa án Đan Mạch và trước khi có quyết định thừa nhận bản án đó trên lãnh thổ
Pháp. Tòa án Tư pháp tối cao đã cho phép Tòa Phúc thẩm hủy bỏ những điều tra cá
nhân trước khi có thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định của tòa án Đan Mạch.
b. Theo cơ chế quy định trong Nghị định số 1346/2000, cần phải nhấn mạnh hai yếu
tố sau.
o Điều 16 và 17 Nghị định khẳng định nguyên tắc một nước thành viên trong Liên
minh Châu Âu sẽ thừa nhận các quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản doanh
nghiệp của toà án các nước thành viên khác. Điều 16, khoản 1 quy định: "Tất cả các
quyết định mở thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của tòa án có
thẩm quyền của một quốc gia thành viên … được thừa nhận tại tất cả các quốc gia
thành viên khác ngay khi quyết định đó có hiệu lực tại quốc gia mở thủ tục" và điều 17
khoản 1 nhấn mạnh rằng quyết định này được mặc nhiên thừa nhận mà không cần
phải qua bất cứ một thủ tục nào. Do đó, theo pháp luật của Liên minh Châu Âu, chúng
ta không gặp phải vấn đề khó khăn như khi giải quyết vụ án Kléber bởi vì ở đây không
còn khoảng thời gian trống, cùng một lúc quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản có
hiệu lực ở tất cả các nước.
Tuy nhiên, một khó khăn lớn đặt ra liên quan đến vụ việc đang được Toà án Tư pháp
tối cao xem xét. Nghị định của Liên minh Châu Âu không hề quy định cụ thể về việc
xác định xem toà án nước ngoài có thực sự có thẩm quyền giải quyết vụ phá sản đó
hay không. Phần nói đầu của Nghị định cũng không đề cập vấn đề này. Nguyên tắc tin
tưởng lẫn nhau giữa các toà án của các quốc gia thành viên là cơ sở cho việc xây dựng
một không gian tư pháp Châu Âu dường như đã cản trở việc kiểm tra thẩm quyền của
thẩm phán nước ngoài. Tuy nhiên, nguyên tắc trên đã bộc lộ nhược điểm trong vụ việc
mà Toà án Tư pháp tối cao đang giải quyết liên quan đến một tập đoàn đa quốc gia.
Trong vụ việc này, công ty mẹ có trụ sở chính tại Anh, các công ty con đặt tại nhiều
nước Châu Âu trong đó có nước Pháp. Theo phần (A, a) trên đây, các công ty con được
coi là các con nợ độc lập. Do vậy, một Tòa án thương mại của Pháp đã tuyên bố mở
thủ tục phục hồi doanh nghiệp đối với công ty con ở Pháp và đưa ra kế hoạch chuyển
nhượng tài sản đối với công ty con đó. Tuy nhiên, trước đó, một tòa án ở Anh cho
rằng, trụ sở chính theo điều lệ của công ty con đó đặt tại Pháp (nơi đăng ký kinh
doanh của công ty con), còn trụ sở chính thực tế của công ty con lại ở Anh (nơi có trụ
sở chính của công ty mẹ). Dựa trên căn cứ này, Tòa án Anh đã ra quyết định mở thủ
tục phá sản đối với công ty con ở Pháp. Về phần mình, trong bản án phúc thẩm ngày 4
tháng 9 năm 2003, Tòa Phúc thẩm Versailles của Cộng hòa Pháp cho rằng, áp dụng
Nghị định số 1346/2000, phải công nhận quyết định của tòa án Anh và chấm dứt thủ
tục giải quyết phá sản mở tại Pháp cũng như kế hoạch phục hồi doanh nghiệp nói trên.
Tòa án Tư pháp tối cao có thể đưa vụ việc này lên Tòa án Công lý Châu Âu. Tuy nhiên,
điều đáng lo là trong trường hợp xảy