Đề tài Phân biệt tội trộm cắp tài sản với hành vi trộm cắp tài sản

Điều 8 Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam định nghĩa khái niệm tội phạm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật Xã hội chủ nghĩa”. Định nghĩa trên đã thể hiện sự tập trung về quan điểm của nhà nước ta về tội phạm. Đó là cơ sở khoa học thống nhất cho việc xác định tội phạm, những loại tôi phạm cụ thể và áp dụng đúng đắn những điều luật vào từng loại tội phạm. Hiểu rõ định nghĩa tội phạm trên cho phép chúng ta xác định được hành vi nào là tội phạm, xác định được loại tội phạm, qua đó áp dụng chính xác những điều luật và đưa ra hình phạt thích đáng. Để làm rõ vấn đề trên, trong bài tập nhóm tháng của mình, nhóm DS33D2-3 xin đi vào giải quyết tình huống được đưa ra trong đề bài số 2. Do còn thiếu kinh nghiệm trong việc tìm và phân tích tài liệu cũng như kỹ năng thuyết trình, bài tập nhóm của chúng em không tránh khỏi những sai sót. Mong được thầy cô và các bạn nhận xét và góp ý. Chúng em xin chân thành cảm ơn.

doc10 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2980 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân biệt tội trộm cắp tài sản với hành vi trộm cắp tài sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề số 2 – Hình Sự nhóm 1 – Ds 33 D 2 - 3 LỜI NÓI ĐẦU Điều 8 Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam định nghĩa khái niệm tội phạm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật Xã hội chủ nghĩa”. Định nghĩa trên đã thể hiện sự tập trung về quan điểm của nhà nước ta về tội phạm. Đó là cơ sở khoa học thống nhất cho việc xác định tội phạm, những loại tôi phạm cụ thể và áp dụng đúng đắn những điều luật vào từng loại tội phạm. Hiểu rõ định nghĩa tội phạm trên cho phép chúng ta xác định được hành vi nào là tội phạm, xác định được loại tội phạm, qua đó áp dụng chính xác những điều luật và đưa ra hình phạt thích đáng. Để làm rõ vấn đề trên, trong bài tập nhóm tháng của mình, nhóm DS33D2-3 xin đi vào giải quyết tình huống được đưa ra trong đề bài số 2. Do còn thiếu kinh nghiệm trong việc tìm và phân tích tài liệu cũng như kỹ năng thuyết trình, bài tập nhóm của chúng em không tránh khỏi những sai sót. Mong được thầy cô và các bạn nhận xét và góp ý. Chúng em xin chân thành cảm ơn. 1. Trên cơ sở phân loại tội phạm, hãy xác định loại tội phạm mà A đã thực hiện và giải thích tại sao? Muốn biết tội phạm mà A đó thực hiện thuộc loại tội phạm gì, ta phải căn cứ vào việc xác định xem người phạm tội đó thực hiện tội phạm gì, tội phạm đó được phản ánh trong khoản nào, điều nào của BLHS, và mức cao nhất của khung hình phạt được phản ánh trong CTTP của tội phạm đó là bao nhiêu năm. Sau đó căn cứ vào cách phân loại tội phạm theo khoản 2 điều 8 BLHS và định nghĩa về từng loại tội phạm theo khoản 3 điều 8 BLHS ta sẽ kết luận được loại tội phạm mà người đó phạm phải. Trong trường hợp trên, A đó lén lút chiếm đoạt xe ,máy của chị B trị giá 60 triệu đồng, hành vi của A đó bị Tòa án kết án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo điểm e khoản 2 điều 138 BLHS 1999. Điều 138: Tội trộm cắp tài sản “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tự từ hai năm đến bảy năm: e. chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đến dưới hai trăm triệu đồng.” Khoản 2 điều 8 BLHS quy định về phân loại tội phạm như sau: “2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được qui định trong bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.” Và theo quy định tại khoản 3 điều 8 BLHS ta có: “3. … tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; …” Như vậy, trong trường hợp của A, A bị Tòa án tuyên án 3 năm tù theo điểm e khoản 2 điều 138 BLHS, mà mức cao nhất của khung hình phạt được phản ánh trong CTTP của tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 điều 138 là 7 năm tù. Với những lập luận trên, ta có thể kết luận loại tội phạm mà A đó thực hiện là loại tội phạm nghiêm trọng. 2. Có thể căn cứ vào hình phạt 3 năm tù để xác định tội phạm do A thực hiện thuộc loại tội nào được không? Vì sao? A bị tòa án kết án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 điều 138 BLHS năm 1999, nhưng không thể căn cứ vào hình phạt 3 năm tù đó để xác đinh tội phạm do A thực hiện thuộc loại tội nào được vì nếu căn cứ vào mức án tòa án tuyên cụ thể để phân loại tội phạm thì không đúng với quy định tại khoản 3 điều 8. Theo khoản 3 điều 8 BLHS 1999 định nghĩa về từng loại tội phạm, ta có: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; …” Với một mức án cụ thể của toà án đối với 1 tội phạm, thì tội phạm đó hoàn toàn có khả năng rơi vào các loại tội phạm khác nhau được định nghĩa theo khoản 3 điều 8 BLHS 1999. Chẳng hạn trong trường hợp của A, A bị toà kết án 3 năm tù theo điều 138 BLHS 1999. Từ mức án 3 năm tù này ta có thể suy ra rất nhiều khả năng khác nhau: - Khả năng thứ nhất, có thể A phạm tội theo khoản 1 điều 138, với khung hình phạt từ 6 tháng đến 3 năm tù, và mức hình phạt cao nhất là 3 năm tù, vì thế tội của A thuộc loại “tội phạm ít nghiêm trọng’ - Khả năng thứ hai, có thể là A phạm tội theo khoản 2 điều 138 BLHS, theo quy định tại khoản 2 thì khung hình phạt là từ 2 năm đến 7 năm, mà mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù, vì thế tội phạm mà A đã thực hiện thuộc loại “tội phạm nghiêm trọng”. - Khả năng thứ ba, có thế A phạm tội theo khoản 3 điều 138 BLHS, khoản 3 điều 138 qui định khung hình phạt từ 7 năm đến 15 năm tù, mức án 3 năm tù của A cũng có thể là do A có nhiều tình tiết giảm nhẹ (dưới khung hình phạt), với mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù, vì thế tội của A thuộc loại “ tội phạm rất nghiêm trọng’’. - Khả năng thứ tư, cũng có thể A phạm tội theo khoản 4 điều 138 BLHS, với khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Nhưng có thể do A có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên toà án giảm án cho A xuống 3 năm (dưới khung hình phạt). Mức cao nhất của khung hình phạt tại khoản 4 điều 138 là tù chung thân, theo định nghĩa tội phạm tại khoản 3 điều 8 BLHS thì ta có thể kết luận tội của A thuộc loại “tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” Tóm lại, mức án ba năm tù là một mức án đã được toà án đưa ra cho một trường hợp phạm tội cụ thể, nó là một mức án mà trong đó tòa án đã căn cứ theo quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội , nhân thân người phạm tội các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự rồi mới quyết định hình phạt (Theo Điều 45 “căn cứ quyết định hình phạt” Bộ luật Hình sự 1999). Vì thế việc dựa vào mức án 3 năm tù mà Tòa án tuyên phạt đối với A để kết luận tội mà A đã phạm thuộc loại tội nào là không đúng với quy định của pháp luật. 3. Sự khác nhau giữa tội trộm cắp tài sản và hành vi trộm cắp tài sản Tội trộm cắp tài sản Hành vi trộm cắp tài sản KHÁCH THỂ Cùng xâm hại quan hệ sỡ hữu nhưng mức độ gây thiệt hại và đe dọa gây ra cho quan hệ sở hữu là lớn hơn. Cùng xâm phạm quan hệ sở hữu nhưng mức độ thiệt hại hoặc đe dọa gây ra cho quan hệ sở hữu là ít hơn. VỀ MẶT HÌNH THỨC PHÁP LÝ => Là hành vi trái pháp luật hình sự hay được quy định trong bộ luật hình sự Theo điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 thì: Người trộm cắp tài sản của người khác: Có giá trị từ 500 nghìn trở lên Hoặc dưới 500 nghìn nhưng gây hậu quả nghiêm trọng Hoặc dưới 500 nghìn nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản Hoặc dưới 500 nghìn nhưng đã từng bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản và chưa được xóa án tích Hoặc hành vi trộm cắp tài sản nhưng rơi vào một trong các trường hợp sau: + Có tổ chức; + Có tính chất chuyên nghiệp + Tái phạm nguy hiểm; + Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; + Hành hung để tẩu thoát. thì bị coi là tội phạm nếu đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật (điều 12) và không rơi vào tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo quy định tại điều 13 Bộ luật hình sự 1999) => Không trái pháp luật hoặc không quy định trong luật hình sự. Căn cứ vào điều 138 Bộ luật hình sự 1999 hiện đang có hiệu lực thi hành thì các trường hợp sau không phải là tội phạm: Có hành vi trộm cắp nhưng giá trị tài sản trộm cắp dưới 500 nghìn đồng, chưa gây hậu quả nghiêm trọng (hoặc gây hậu quả ít nghiêm trọng),chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt lần nào,chưa bị kết về tội chiếm đoạt tài sản (hoặc đã bị kết án nhưng đã được xóa án tích) Không phải là hành vi trộm cắp: + Có tổ chức; + Hoặc có tính chất chuyên nghiệp; + Hoặc tái phạm nguy hiểm; + Hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; + Hoặc hành hung để tẩu thoát CHỦ THỂ Chủ thể thực hiện phải là người đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không rơi vào trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi trộm cắp bị coi là tội phạm Điều 12 Bộ luật hình sự 1999: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1. Người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm. 2. Người đủ 14 tuổi trở lên. nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” Khoản 1 điều 13: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.” Người thực hiện hành vi trộm cắp có thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định hoặc không PHÁN QUYẾT CỦA TÒA ÁN Một người chỉ bị coi là phạm tội khi có bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Nếu chưa có bản án, quyết định của toà án hoặc có bản án, quyết định rồi nhưng nó chưa có hiệu lực pháp luật thì người đó chỉ bị coi là có hành vi trộm cắp tài sản chứ chưa phải phạm tội trộm cắp tài sản. CHẾ TÀI Tội phạm bị xử lý bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước, nghiêm khắc nhất là hình phạt. Tội trộm cắp tài sản có các hình phạt là: cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân và có thể có thêm hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Các biện pháp cưỡng chế ít nghiêm khắc hơn, chịu trách nhiệm dân sự: trả lại tài sản, sửa chữa, bồi thường thiệt hại… TÍNH NGUY HIỂM CHO XÃ HỘI Tội trộm cắp tài sản có tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn Hành vi trộm cắp tài sản có tính chất và mức độ nguy hiểm ít hơn. Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý là theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1999 ban hành năm 2009 thì mức định lượng tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 của một số điều đã được sửa đổi. Trong đó sửa đổi cụm từ “năm trăm nghìn đồng” thành “hai triệu đồng” tại khoản 1 của các điều: 137, 138, 139, 143, 278, 279, 280, 283, 289, 290, 291. Luật sửa đổi bộ luật hình sự 1999 ban hành ngày 19 tháng 6 năm 2009 và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Như vậy, theo luật này thì những hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng (hoặc gây hậu quả ít nghiêm trọng), chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt lần nào, chưa bị kết về tội chiếm đoạt tài sản (hoặc đã bị kết án nhưng đã được xóa án tích) thì không bị coi là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự. 4. Giả định rằng: A thực hiện hành vi trốm cắp tài sản vào thàng 12 năm 1999 thì tòa án sẽ áp dụng điều luật nào đẽ xét xử A? Tại sao? Sẽ có 2 trường hợp: Trường hợp thứ 1: A bị thực hiện hành vi trộm cắp vào tháng 12 năm 1999 và đã có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước 0h 00 ngày 1 tháng 7 năm 2000 (ngày Bộ luật Hình sự 1999 có hiệu lực) thì không được căn cứ vào những quy định của Bộ luật hình sự này có nội dung khác so với các điều luật đã được áp dụng khi tuyên án để kháng nghị giám đốc thẩm (theo quy định tại điểm d mục 2 của Nghị quyết 32/1999/QH 10 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự được ban hành ngày 21 tháng 12 năm 1999). “d) Đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000 và đã có bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, thì không được căn cứ vào những quy định của Bộ luật hình sự này có nội dung khác so với các điều luật đã được áp dụng khi tuyên án để kháng nghị giám đốc thẩm; trong trường hợp kháng nghị dựa vào căn cứ khác hoặc đã kháng nghị trước ngày 01 tháng 7 năm 2000, thì việc xét xử giám đốc thẩm phải tuân theo quy định tại điểm b và điểm c Mục này.” Trường hợp thứ 2: A thực hiện hành vi vào tháng 12 năm 1999 nhưng sau 0 h 00 ngày 1 tháng 7 năm 2000 mới bị phát hiện, mới đang điều tra, truy tố xét xử thì Tòa án vẫn áp dung điều 155 bộ luật hình sự 1985 để xử A vì : Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 bộ luật hình sự 1985 thì: “Điều luật áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành khi hành vi ấy được thực hiện.” Và theo khoản 1điều 7 bộ luật hình sự năm 1999 thì:” Điều luật được áp dụng đối với hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện” Mà Bộ luật Hình sự 1999 được Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 và có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2000. Bộ luật này sẽ thay thế cho Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội thông qua ngày 27 tháng 6 năm 1985 và có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1986. A thực hiện hành vi trộm cắp vào thánh 12 năm 1999 tức là trước ngày bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực và tại thời điểm mà bộ luật hình sự năm 1985 đang có hiệu lực thi hành. Đây là căn cứ thứ nhất. Mặt khác, Khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành"; Và theo quy định tại điểm a mục 2 của Nghị quyết 32/1999/QH 10 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự được ban hành ngày 21 tháng 12 năm 1999: “Tất cả các điều khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng để điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000;” “Các điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xoá án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản pháp luật hình sự trước đây để giải quyết;” (Theo điểm c mục 2 của Nghị quyết 32/1999/QH 10 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự được bạn hành ngày 21 tháng 12 năm 1999) “Hình phạt nặng hơn” mà điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định so với điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985 quy định được xác định như sau: 1- Nếu về cùng một tội phạm mà điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định loại hình phạt nặng hơn so với loại hình phạt nặng nhất được quy định trong điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự năm 1985. Ví dụ: Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định loại hình phạt "tù chung thân" là loại hình phạt nặng hơn hình phạt tù có thời hạn (Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định hình phạt tù có thời hạn với mức cao nhất là 20 năm tù); do đó, đối với tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác”, thì điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt nặng hơn; cho nên đối với người phạm tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác” trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 01-7-2000 mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì vẫn áp dụng Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985. 2- Nếu về cùng một tội phạm mà điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định cùng loại hình phạt như đã được quy định trong điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng mức hình phạt tối đa của khung hình phạt nặng nhất được quy định trong điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 cao hơn mức tối đa của khung hình phạt nặng nhất được quy định trong điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985. Ví dụ: Về tội “Xâm phạm quyền tác giả” thì Điều 131 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt nặng hơn so với Điều 126 Bộ luật hình sự năm 1985, bởi vì trong cả hai điều luật này đều quy định hình phạt tù có thời hạn, nhưng mức tối đa của khung hình phạt nặng nhất được quy định trong Điều 131 Bộ luật hình sự năm 1999 là 3 năm tù, còn trong Điều 126 Bộ luật hình sự năm 1985 là 1 năm tù; do đó, đối với người phạm tội “xâm phạm quyền tác giả” trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 01-7-2000 mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì vẫn áp dụng Điều 126 Bộ luật hình sự năm 1985. 3- Nếu về cùng một tội phạm mà điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định cùng loại hình phạt như đã được quy định trong điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985 và mức hình phạt tối đa của khung hình phạt nặng nhất được quy định trong điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 bằng mức tối đa của khung hình phạt nặng nhất được quy định trong điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng mức tối thiểu của khung hình phạt nhẹ nhất được quy định trong điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 cao hơn mức tối thiểu của khung hình phạt nhẹ nhất được quy định trong điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985. Ví dụ: Về tội “Hành nghề mê tín, dị đoan” thì Điều 247 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt nặng hơn so với Điều 199 Bộ luật hình sự năm 1985, bởi vì trong cả hai điều luật này đều quy định hình phạt tù có thời hạn và mức tối đa của khung hình phạt nặng nhất quy định tại hai điều luật này bằng nhau (đều 10 năm tù), nhưng mức tối thiểu của khoản 1 Điều 247 Bộ luật hình sự năm 1999 là 6 tháng tù, còn của khoản 1 Điều 199 Bộ luật hình sự năm 1985 là 3 tháng tù; do đó, đối với người phạm tội “Hành nghề mê tín, dị đoan” trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 01-7-2000 mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì vẫn áp đụng Điều 199 Bộ luật hình sự năm 1985. (trích Thông tư liên tịch số 02/2000/TTLT/TANDTC/VKSNDTC/BTP/BCA của Tòa án nhan dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ công an về việc hướng dẫn thi hành Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và Mục 2 Nghị quyết số 32/1999/QH1O ngày 21 tháng 12 năm 1999 của Quốc hội) Ta thấy điều 138 Bộ luật Hình Sự 1999 quy định mức phạt cao nhất là tù chung thân. Điều 138: Tội trộm cắp tài sản “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tôi thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b. Gây hậu quả nghiêm trọng, 4. Phạm tội thuôc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, 5.Người phạm tội còn có thẻ bị phạt tiền từ năm triệu đồng đén năm mươi triệu đồng.” Trong khi điều 155 bộ luật hình sự 1985 quy định về tội trộm cắp tài sản của công dân thì hình phạt cao nhất là phạt tù 20 năm (tù có thời hạn) Điều 155: Tội trộm cắp tài sản của công dân. “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm; a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát; c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác; d) Tái phạm
Luận văn liên quan