Đề tài Phân cấp quản lý ngân sách tại Việt Nam hiện nay

Ngân sách nhà nước được phân cấp quản lý giữa Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương là tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước gồm nhiều cấp. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà còn từ cơ chế phân cấp quản lý về hành chính. Mỗi cấp chính quyền đều có nhiệm vụ cần đảm bảo bằng những nguồn tài chính nhất định mà các nhiệm vụ đó mỗi cấp đề xuất và bố trí chi tiêu sẽ hiệu quả hơn là có sự áp đặt từ trên xuống. Mặt khác, xét về yếu tố lịch sử và thực tế hiện nay, trong khi Đảng và Nhà nước ta đang chống tư tưởng địa phương, cục bộ vẫn cần có chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích chính quyền địa phương phát huy tính độc lập, tự chủ, tính chủ động, sáng tạo của địa phương mình trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Có một số khoản thu như: tiền cho thuê mặt đất, mặt nước đối với doanh nghiệp, tiền cho thuê và tiền bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước, lệ phí trước bạ, thuế môn bài, giao cho địa phương quản lý sẽ hiệu quả hơn. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là cách tốt nhất để gắn các hoạt động của ngân sách nhà nước với các hoạt động kinh tế, xã hội một cách cụ thể và thực sự nhằm tập trung đấy đủ và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính quốc gia và phân phối sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước cho phép quản lý và kế hoạch hoá ngân sách nhà nước được tốt hơn, điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như quan hệ giữa các cấp ngân sách được tốt hơn để phát huy vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô của ngân sách nhà nước. Đồng thời, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước còn có tác động thúc đẩy phân cấp quản lý kinh tế, xã hội ngày càng hoàn thiện hơn. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 16/12/2002, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004. Đây là một Luật quan trọng trong hệ thống pháp luật về tài chính của nước ta. Qua hơn 6 năm thực hiện Luật NSNN đã phát huy được nhiều mặt tích cực, nâng cao được hiệu quả quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản nhà nước, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, củng cố kỷ luật tài chính, tăng cường tích lũy, sử dụng tiết kiệm NSNN, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. T rong quá trình thực hiện, phâp cấp quản lý ngân sách là một vấn đề nổi cộm cần phải được tổng kết, phân tích, đánh giá để sửa đổi cho phù hợp nhằm hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách tài chính phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới, đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và việc điều hành ngân sách nhà nước nói riêng. Tóm lại phân cấp ngân sách đúng đắn và hợp lý, tức là việc giải quyết mối quan hệ giữa chính quyền Nhà nước trung ương và các cấp chính quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề hoạt động và điều hành ngân sách nhà nước đúng đắn và hợp lý sẽ là một giải pháp quan trọng trong quản lý ngân sách nhà nước.

pdf14 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2126 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân cấp quản lý ngân sách tại Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài 33: PHÂN CẤP Q UẢN LÝ NGÂN SÁCH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ C HÍ MINH KHOA SAU ĐẠI HỌ C -----ooo0ooo----- Đề tài 33: PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY GVHD : PHẠM QUANG HUY Lớp : Kế toán ngày – K20 SVTH :Trần Thị Diễm Phụng Tp.HCM, ngày 08 tháng 10 năm 2012 Đề tài 33: PHÂN CẤP Q UẢN LÝ NGÂN SÁCH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 2 SỰ C ẦN THIẾT C ỦA ĐỀ TÀI: Ngân sách nhà nước được phân cấp quản lý giữa Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương là tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước gồm nhiều cấp. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà còn từ cơ chế phân cấp quản lý về hành chính. Mỗi cấp chính quyền đều có nhiệm vụ cần đảm bảo bằng những nguồn tài chính nhất định mà các nhiệm vụ đó mỗi cấp đề xuất và bố trí chi tiêu sẽ hiệu quả hơn là có sự áp đặt từ trên xuống. Mặt khác, xét về yếu tố lịch sử và thực tế hiện nay, trong khi Đảng và Nhà nước ta đang chống tư tưởng địa phương, cục bộ … vẫn cần có chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích chính quyền địa phương phát huy tính độc lập, tự chủ, tính chủ động, sáng tạo của địa phương mình trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Có một số khoản thu như: tiền cho thuê mặt đất, mặt nước đối với doanh nghiệp, tiền cho thuê và tiền bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước, lệ phí trước bạ, thuế môn bài,…giao cho địa phương quản lý sẽ hiệu quả hơn. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là cách tốt nhất để gắn các hoạt động của ngân sách nhà nước với các hoạt động kinh tế, xã hội một cách cụ thể và thực sự nhằm tập trung đấy đủ và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính quốc gia và phân phối sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước cho phép quản lý và kế hoạch hoá ngân sách nhà nước được tốt hơn, điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như quan hệ giữa các cấp ngân sách được tốt hơn để phát huy vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô của ngân sách nhà nước. Đồng thời, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước còn có tác động thúc đẩy phân cấp quản lý kinh tế, xã hội ngày càng hoàn thiện hơn. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 16/12/2002, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004. Đây là một Luật quan trọng trong hệ thống pháp luật về tài chính của nước ta. Qua hơn 6 năm thực hiện Luật NSNN đã phát huy được nhiều mặt tích cực, nâng cao được hiệu quả quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản nhà nước, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, củng cố kỷ luật tài chính, tăng cường tích lũy, sử dụng tiết kiệm NSNN, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. T rong quá trình thực hiện, phâp cấp quản lý ngân sách là một vấn đề nổi cộm cần phải được tổng kết, phân tích, đánh giá để sửa đổi cho phù hợp nhằm hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách tài chính phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới, đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và việc điều hành ngân sách nhà nước nói riêng. Tóm lại phân cấp ngân sách đúng đắn và hợp lý, tức là việc giải quyết mối quan hệ giữa chính quyền Nhà nước trung ương và các cấp chính quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề hoạt động và điều hành ngân sách nhà nước đúng đắn và hợp lý sẽ là một giải pháp quan trọng trong quản lý ngân sách nhà nước. Đề tài 33: PHÂN CẤP Q UẢN LÝ NGÂN SÁCH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 3 II. KHÁI NIỆM VÀ NGUYÊN TẮC PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền Nhà nước về vấn đề liên quan đến việc quản lý và điều hành ngân sách nhà nước. Để chế độ phân cấp quản lý mang lại kết quả tốt cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: Một là: phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội của đất nước. Phân cấp quản lý kinh tế, xã hội là tiền đề, là điều kiện để thực hiện phân cấp quản lý ngân sách nhà nước. Quán triệt nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc giải quyết mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền qua việc xác định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp. Thực chất của nguyên tắc này là giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ và quyền lợi, quyền lợi phải tương xứng với nhiệm vụ được giao. Mặt khác, nguyên tắc này còn đảm bảo tính độc lập tương đối trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở nước ta. Hai là: ngân sách t rung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn lực cơ bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước. Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ vị trí quan trọng của Nhà nước trung ương trong quản lý kinh tế, xã hội của cả nước mà Hiến pháp đã quy định và từ tính chất xã hội hoá của nguồn tài chính quốc gia. Nguyên tắc này được thể hiện: - Mọi chính sách, chế độ quản lý ngân sách nhà nước được ban hành thống nhất và dựa chủ yếu trên cơ sở quản lý ngân sách trung ương. - Ngân sách trung ương chi phối và quản lý các khoản thu, chi lớn trong nền kinh tế và trong xã hội. Điều đó có nghĩa là: các khoản thu chủ yếu có tỷ trọng lớn phải được tập trung vào ngân sách trung ương, các khoản chi có tác động đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của cả nước phải do ngân sách trung ương đảm nhiệm. Ngân sách trung ương chi phối hoạt động của ngân sách địa phương, đảm bảo tính công bằng giữa các địa phương. Ba là: phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp t rên cho ngân sách cấp dưới được cố định từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, chỉ xem xét điều chỉnh số bổ sung một phần khi có trượt giá và một phần theo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chế độ phân cấp xác định rõ khoản nào ngân sách địa phương được thu do ngân sách địa phương thu, khoản nào ngân sách địa phương phải chi do ngân sách địa phương chi. Không để tồn tại t ình trạng nhập nhằng dẫn đến tư tưởng trông chờ, ỷ lai hoặc lạm thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Có như vậy mới tạo điều kiện nâng cao tính chủ động cho các địa phương trong bố trí kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời là điều kiện để xác định rõ trách nhiệm của địa phương và trung ương trong quản lý ngân sách nhà nước, tránh co kéo trong xây dựng kế hoạch như trước đây. Đề tài 33: PHÂN CẤP Q UẢN LÝ NGÂN SÁCH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 4 Bốn là: đảm bảo công bằng trong phân cấp ngân sách. Phân cấp ngân sách phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả nước, cố gắng hạn chế thấp nhất sự chênh lệch về văn hoá, kinh tế, xã hội giữa các vùng lãnh thổ. III. NỘI DUNG CỦA PHÂN CẤP Q UẢN LÝ NGÂN SÁC H NHÀ NƯỚ C Dựa trên cơ sở quán triệt những nguyên tắc trên, nội dung của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước được quy định rõ trong chương II và III của luật ngân sách nhà nước bao gồm : Nội dung thứ nhất là phân cấp các vấn đề liên quan đế quản lý, điều hành ngân sách nhà nước từ trung ương đến địa phương trong việc ban hành, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát về chế độ, chính sách. Tiếp theo là phân cấp về các vấn đề liên quan đế nhiệm vụ quản lý và điều hành ngân sách nhà nước trong việc ban hành hệ thống biểu mẫu, chứng từ về trình tự và trách nhiệm của các cấp chính quyền trong xây dựng dự toán ngân sách, quyết toán ngân sách và tổ chức thực hiện kế hoạch ngân sách nhà nước. Về các khoản thu ngân sách nhà nước: Hiện nay, theo luật ngân sách nhà nước sửa đổi, việc phân chia nội dung thu ngân sách nhà nước không dựa vào t ính chất sở hữu, tổ chức của cơ sở kinh tế mà theo cơ chế: * Mỗi cấp ngân sách đều có các khoản thu được hưởng 100%. Như vậy, có thể giúp chính quyền địa phương chủ động bố trí cân đối ngân sách cấp mình * Các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ điều tiết giữa các cấp ngân sách. Hiện nay, luật quy đinh: * Tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách từng tỉnh do Chính phủ quyết định và nó được áp dụng chung đối với tất cả các khoản thu được phân chia và được xác định riêng cho từng tỉnh. Các khoản thu được phân chia gồm: Thuế giá trị gia tăng không kể thuế giá trị gia tăng thu từ hàng hoá nhập khẩu và thu từ hoạt động xổ số kiến thiết. Thuế thu nhập doanh nghiệp không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành và thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ hoạt động xổ số kiến thiết. Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Đề tài 33: PHÂN CẤP Q UẢN LÝ NGÂN SÁCH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 5 Thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân nước ngoài có vốn đầu tư tại Việt nam Thu sử dụng vốn ngân sách của các doanh nghiệp nhà nước không kể thu sử dụng vốn ngân sách từ hoạt động xổ số kiến thiết. Phân định nguồn thu giữa NSTƯ và ngân sách tỉnh. Ngân sách t rung ương Ngân sách địa phương Các khoản thu 100% 1.thuế GTGT hàng nhập khẩu 2.thuế xuất, nhập khẩu 3.thuế tiêu thụ đặc biệt (t rừ một số mặt hàng, dịch vụ) 4.thuế thu nhập doanh nghiệp của đơn vị hạch toán toàn ngành 5.thu từ dầu khí 6.thu nhập từ vốn góp của nhà nước, tiền thu hồi vốn của nhà nước từ các cơ sở kinh tế 7.các khoản do Chính phủ vay, viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước 8.các khoản phí, lệ phí theo quy định 9.thu kết dư NSTƯ 10.các khoản thu khác. 1.tiền cho thuê đất 2.tiền cho thuê và bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước 3.lệ phí trước bạ 4.thu từ hoạt động xổ số kiến thiết 5.viên trợ không hoàn lai của nước ngoài trực tiếp cho địa phương 6.các khoản phí, lệ phí theo quy định 7.các khoản đóng góp tự nguỵện của cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước 8.thu kết dư NSĐP 9.thu bổ sung từ NSTƯ 10.các khoản thu khác theo quy định. Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa NSTƯ và ngân sách tỉnh. 1.thuế GTGT (trừ thuế GTGT hàng nhập khẩu và hoạt động sổ xố kiến thiết)2.thuế thu nhập doanh nghiệp (trừ các đơn vị hạch toán toàn ngành và hoạt động xổ số kiến thiết)3.thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao4.thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài5.thu từ sử dụng vốn ngân sách của các DNNN. Các khoản thu phân chia giữa tỉnh, huyện, xã 1.thuế chuyển quyền sử dụng đất2.thuế nhà đất3.thuế sử dụng đất nông nghiệp4.thuế tài nguyên5.thuế tiêu thụ đặc biệt với hàng sản xuát trng nước thu vào vàng mã, kinh doanh vũ trường, mát xa,…tỷ lệ phân chia do UBND tỉnh quy định. Về các khoản chi ngân sách nhà nước Đề tài 33: PHÂN CẤP Q UẢN LÝ NGÂN SÁCH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 6 Theo luật ngân sách nhà nước, nội dung chi ngân sách nhà nước được phân loại theo tổ chức kinh tế, từ ngân sách trung ương đến ngân sách các cấp địa phương đều có các khoản chi cơ bản giống nhau: Chi thường xuyên: là những khoản chi hết sức cần thiết và không thể trì hoãn, phải thực hiện thường xuyên hàng tháng, hàng năm để duy trì sự tồn tại của bộ máy Nhà nước. Chi đầu tư, phát triển: là những khoản chi để hình thành tài sản cố định như mua sắm tài sản cố định, đầu tư xây dựng các công trình kinh tế mũi nhọn, xây dung cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, xây dựng nhà cửa, đầu tư vào các động sản tài chính, sửa chữa lớn tài sản cố định, chi trả nợ gốc tiền vay… những khoản chi này gắn với việc điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước, tạo môi trường và điều kiện cho các TPKT hoạt động và phát t riển. Sự khác nhau cơ bản giữa hai nhóm chỉ tiêu trên thể hiện ở chỗ: chi thường xuyên có tính chất t iêu hao trực t iếp, còn chi đầu tư phát triển có tính chất thu hồi trong những điều kiện nhất định. Theo thứ tự ưu tiên thì chi thường xuyên được ưu tiên trước hết, sau đó mới đến chi đầu tư phát triển. Thứ tự ưu t iên này cũng chỉ có ý nghĩa tương đối vì nếu cứ ưu tiên chi thường xuyên dễ dẫn đến phá vỡ cơ cấu kinh tế, và nếu cứ ưu tiên chi đầu tư phát triển dễ đẫn đến làm tăng thâm hụt ngân sách nhà nước. Cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đều có hai khoản chi trên, tuy nhiên, giữa chúng cũng có sự khác nhau về quy mô, phạm vi của các khoản chi. Chi đầu tư phát triển của ngân sách trung ương là những khoản chi có quy mô lớn, có tác dụng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các khoản chi này nhìn chung là khó xác định chủ đầu tư và các công trình phúc lợi công cộng. Còn các khoản chi của ngân sách địa phương chỉ đầu tư cho những công trình, mục tiêu được thực hiện trong phạm vi địa phương đó. Ngoài ra, có một số khoản chi thuộc đặc thù chức năng của ngân sách trung ương thì ngân sách trung ương đảm nhiệm: trả nợ vay, chi an ninh quốc phòng, chi về ngoại giao… Về số bổ sung từ nhân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới: Gồm hai loại: * Số bổ sung để cân đối ngân sách gồm số bổ sung ổn định trong suốt thời kỳ nhất định và số bổ sung tăng thêm hàng năm một phần theo tỷ lệ trượt giá và một phần theo tốc độ tăng trưởng kinh tế * Số bổ sung theo mục tiêu. Có thể nói, với những nội dung trên, hệ thống ngân sách nhà nước và chế độ phân cấp và quản lý ngân sách nhà nước đã bước đầu tạo cơ sở, điều kiện, hành lang pháp lý cho công tác quản lý, điều hành hoạt động ngân sách nhà nước có hiệu lực và có hiệu quả, theo những chuẩn mực nhất định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của ngân sách nhà nước trong cơ chế kinh tế mới ở nước phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách trung ương và ngân sách tỉnh. Lĩnh vực Ngân sách trung ương Ngân sách t ỉnh Đề tài 33: PHÂN CẤP Q UẢN LÝ NGÂN SÁCH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 7 1.Chi xây dựng cơ bản- Các công trình kinh tế then chốt quan trọng.- Các công trình hạ tầng cơ sở2.Chi vốn lưu động.3.Chi trả nợ (t rong và ngoài nước).4.Chi dự trữ Nhà nước. NSTƯ đảm nhận các công trình hạ tầng cơ sở không có khả năng thu hồi vốn do trung ương quản lý.Các xí nghiệp trong và ngoài nước do trung ương quản lý.Hầu hết NSTƯ đảm nhận chi trả nợ nước ngaòi.Hầu hêt NSTƯ đảm nhiệm. NSĐP đảm nhận các công trình hạ tầng cơ sở do địa phương quản lý.Các xí nghiệp do địa phương quản lý.Trả nợ trong nước, địa phương đảm nhận phần huy động xây dựng cơ sở hạ tầng. 1.C hi quản lý Nhà nước.2.Chi sự nghiệp kinh tế nông nghiệp, thuỷ lợi Lâm nghiệp Giao thong Kiến thiết thị chính.3.Chi sự nghiệp giáo dục phổ thong Chi hoạt động thường xuyên giáo dục Chi chương trình mục tiêu 4.Chi sự nghiệp đào tạo Các trường đại học. Các trường trung học 5.Chi y tế 6.Chi nghiên cứu khoa học 7.Chi văn hoá thông tin 8.Chi thể dục, thể thao 9.Chi quốc phòng, an ninh 10.Chi hỗ trợ Đảng, đoàn, hội 11.Chi t rợ cấp ngân sách xã 12.Chi khác Toàn bộ bộ máy quản lý Nhà nước của trung ương Duy trì bảo vệ đê điều trung ương Duy tu, tu bổ các đường giao thông, các công trình kiến thiết do trung ương quản lý. Một số công trình quan trọng như xoá mù chữ, giáo dục miền núi…Các trường đại học đa ngành Một số trường PTTH khu vực Các cơ sở y tế chữa bệnh trung ương Nghiên cứu khoa học cơ bản Các sự nghiệp văn hoá quần chúng do trung ương quản lý Toàn bộ hoạt động chính quy Các tổ chức thuộc trung ương Tuỳ thuộc khả năng của NSTƯ Toàn bộ bộ máy Nhà nước của địa phương Bảo vệ đê điều, hỗ trợ làm thuỷ lợi, thuỷ nông Sửa chữa các đường giao thông địa phương Chi toàn bộ các trường tự tiểu học trở lên, kể cả mẫu giáo.Các trường trung học, dạy nghề Cơ sở chữa và khám bệnh do địa phương quản lý Nghiên cứu ứng dụng Các sự nghiệp văn hoá quần chúng do địa phương quản lý Dân quân du kích và tuyển quân Các tổ chức thuộc địa phương Tuỳ thuộc vào phân bổ của NSTƯ III. VIỆC PHÂN C ẤP Q UẢN LÝ NGÂN SÁCH SAU 10 NĂM THỰC HIỆN LUẬT NGÂN SÁC H: 1. Những kết quả đạt được qua 10 năm thực hiện Luật Ngân sách nhà nước Thứ nhất: Luật Ngân sách nhà nước đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc quản lý chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả Ngân sách nhà nước; tăng tích lũy nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại; nâng cao thẩm quyền của Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; trách nhiệm và quyền hạn chính phủ, các bộ ngành trung ương, các địa phương và đơn vị sử dụng Ngân sách nhà nước. Thứ hai: Luật Ngân sách nhà nước đã tạo điều kiện cho việc thực hiện quản lý tập trung thống nhất Ngân sách nhà nước; bảo đảm quyền quyết định của Quốc hội và việc điều hành thống nhất của Chính phủ đối với Ngân sách nhà nước; đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương đồng thời tăng cường phân cấp quản lý, tạo thế chủ động gắn với tăng cường trách nhiệm cho chính quyền địa phương. Việc phân cấp quản lý, sử dụng ngân sách tương đối rõ ràng, cụ thể góp phần nâng cao trách nhiệm, quyền hạn của các bộ, ngành, các cấp chính quyền địa phương và các đơn vị trong quản lý, sử dụng Ngân sách nhà nước. Đề tài 33: PHÂN CẤP Q UẢN LÝ NGÂN SÁCH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 8 Thứ ba: Cải cách và đổi mới toàn diện trong từng khâu của quá trình ngân sách (lập, chấp hành, kế toán và quyết toán ngân sách). Vai trò của dự toán trong việc quản lý điều hành ngân sách đã được coi trọng; qui trình chi ngân sách được đổi mới, chuyển từ hình thức cấp phát bằng hạn mức sang phương thức các đơn vị sử dụng ngân sách được căn cứ vào nhiệm vụ, tiêu chuẩn, định mức, chế độ chi để rút kinh phí theo dự toán được cấp có thẩm quyền giao; vai trò kiểm soát chi của Kho bạc nhà nước được tăng cường; tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sử dụng ngân sách được nâng cao; tăng cường vai trò thanh tra, kiểm t ra, kiểm toán gắn với xử lý trách nhiệm. Dự phòng ngân sách và dự trữ tài chính được qui định cụ thể tạo thế chủ động cho Ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ cấp bách, phòng chống thiên tai, dịch bệnh; thực hiện công khai ngân sách được đẩy mạnh. Thứ tư: Tăng cường thực hiện và tính chủ động của Quốc hội và Hội đồng nhân các cấp trong việc quyết định dự toán ngân sách, quyết định phân bổ ngân sách và phê chuẩn quyết toán Ngân sách nhà nước. Thứ năm : Việc phân bổ, giao dự toán ngân sách dần dần phù hợp với thực tế và đặc thù của các đơn vị đồng thời Luật cũng qui định rõ về cách thức và thời gian phân bổ ngân sách đồng thời yêu cầu việc phân bổ và giao dự toán toán phải khớp đúng tổng mức, chi tiết theo từng lĩnh vực của dự toán Ngân sách nhà nước được cấp có thẩm quyền giao tạo sự minh bạch trong phân chia ngân sách và tíh chủ động cho các đơn vị sử dụng ngân sách. * Về phân cấp quản lý ngân sách - Hệ thống Ngân sách nhà nước hiện nay còn mang tính lồng ghép nên qui trình ngân sách (khâu dự toán và quyết toán) khá phức tạp và nếu HĐND tuân thủ phương án phân bổ ngân sách của ngân sách cấp trên thì việc quyết định dự toán của HĐND chỉ mang tính hình thức, nếu không tuân thủ thì dẫn đến quyết định dự toán của Quốc hội hoặc HĐND cấp trên không được cấp dưới tuân theo. Việc đưa ra kết luận, kiến nghị kiểm toán cũng sẽ rất khó khăn nhất là trong các trường hợp việc không tuân thủ các quyết định của cấp trên nhưng lại phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, mang lại hiệu quả mà không làm lãng phí ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. - Một số địa phương chưa chủ động phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cho cấp dưới mặc dù Luật Ngân sách nhà nước đã qui định rõ thẩm quyền thuộc về địa phương. Phân cấp nguồn thu cho ngân sách xã cũng chưa hợp lý, các xã đều được hưởng tối thiểu 70% của 5 khoản thu (thu thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế nhà, đất; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trước bạ nhà, đất) dẫn đến quá trình thực hiện một số xã thừa nguồn để thực hiện nhiệm vụ chi t rong khi có xã nguồn thu chưa đảm bảo được nhiệm vụ chi. - Về ngân sách địa phương hỗ trợ cho các cơ quan trung ương đóng trên địa bàn: Luật Ngân s