Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, yếu tố về Tài chính – Tiền tệ đang đóng vai trò vô cùng quan trọng, vì thế mà sự vận hành và hoạt động của hệ thống Tổ chức tín dụng (TCTD) sẽ góp phần thúc đẩy quá trình phát triển mạnh mẽ nền tài chính của quốc gia nói riêng cũng như phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước nói chung. Vào những thập niên gần đây, chúng ta có thể nhận thấy nền kinh tế của Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh,có tốc độ phát triển kinh tế cao và khá ổn định, vì thế mà nhu cầu nguồn vốn phục vụ cho phát triển đất nước là rất lơn. Nhưng với thời điểm hiện nay, khi mà vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang còn ở những con số khiêm tốn, trong khi kênh huy động vốn ở trong nước lại chưa thực sự phát huy hết hiệu quả, Thị trường chứng khoán thì đang còn trong giai đoạn chứng nước, còn rất non trẻ nên chưa thể trở thành kênh huy động vốn tối ưu nhất của các doanh nghiệp. Ngoài ra, năng lực tài chính của các doanh nghiệp trong nước cũng rất hạn chế, và phần lớn các hoạt động sản xuất, kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay từ các TCTD. Vì thế, ta có thể khẳng định rằng ở nước ta hiện nay, Tín dụng ngân hàng là kênh huy động nhanh nhất, hiệu quả nhất. Các TCTD càng đa dạng hóa các hình thức cho vay bao nhiêu thì càng tạo ra các điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng có thể dễ dàng tìm được cho mình một hình thức phù hợp với khả năng kinh doanh của mình. Qua đó, ta rất dễ nhận thấy mỗi hình thức cho vay trong hoạt động tín dụng của TCTD đều chứa đựng trong mình những ý nghĩa cơ bản, không chỉ riêng đối với từng doanh nghiệp mà còn tạo ra nền tảng để ổn định nền tài chính quốc gia, và đông thòi thiết lập được một hệ thống pháp luật về Tài chính – Tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Từ quá trình nghiên cứu lí luận và tìm hiểu thực tiễn về hoạt động cho vay của TCTD. Tôi_ là 1 sinh viên năm thứ 4 của trường Đại học Luật Hà Nội, đang được các thầy cô hướng dẫn nghiên cứu về môn Luật ngân hầng Việt Nam. Vì thế, Tôi xin chọn đề tài số 3 “Phân loại cho vay của Tổ chức tín dụng và ý nghĩa của việc phân loại này ” để làm bài nghiên cứu khoa học của mình.
Trong quá trình hoàn thành bài nghiên cứu này, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân trọng nhất đến các thầy cô giáo bộ môn Luật ngân hàng_ Khoa Pháp Luật Kinh tế_Trường Đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ tôi rất nhiều, tạo điều kiện để tôi hoàn thành đề tài của mình theo đúng thời gian quy định.
28 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2057 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân loại cho vay của Tổ chức tín dụng và ý nghĩa của việc phân loại này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Tiêu đề Trang
A . PHẦN MỞ ĐẦU 1
B . PHẦN NỘI DUNG. 2
I . CƠ SỞ PHÁP LÍ 2
II . PHẦN NỘI DUNG. 3
II.1. Một số nét khái quát về Pháp luật điều chỉnh
hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng. 3
II. 2. Phân loại cho vay của Tổ chức tín dụng 5
II.2.1 .Phân loại cho vay của TCTD dựa vào thời hạn
sử dụng vốn vay . 5
II.2.1.1 . Cho vay ngắn hạn. 5
II.2.1.2. Cho vay trung hạn. 7
II.2.1.3. Cho vay dài hạn. 8
II.2.2. Phân loại cho vay của TCTD dựa vào tính chất có
bảo đảm của khoản vay (hay là mức độ tín nhiệm của khách hàng). 9
II.2.2.1. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản 9
II.2.2.2. Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản 11
II.2.3. Phân loại cho vay dựa vào mục đích sử dụng vốn vay 12
II.2.3.1. Cho vay để kinh doanh 13
II.2.3.2. Cho vay tiêu dùng. 13
II.2.4. Phân loại cho vay dựa vào phương thức vay 13
II.2.4.1. Cho vay từng lần 13
II.2.4.2. Cho vay theo hạn mức tín dụng 13
II.2.4.3. Cho vay theo dự án đầu tư 15
II.2.4.4. Cho vay hợp vốn 15
II.2.4.5. Cho vay trả góp 15
II.2.4.6. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng 16
II.2.4.7. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành
và sử dụng thẻ tín dụng 16
II.2.4.8. Cho vay theo hạn mức thấu chi 17
II.3. Ý nghĩa của vấn đề phân loại cho vay của
các tổ chức tín dụng 17
C. PHẦN KẾT LUẬN. 19
BÀI LÀM
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, yếu tố về Tài chính – Tiền tệ đang đóng vai trò vô cùng quan trọng, vì thế mà sự vận hành và hoạt động của hệ thống Tổ chức tín dụng (TCTD) sẽ góp phần thúc đẩy quá trình phát triển mạnh mẽ nền tài chính của quốc gia nói riêng cũng như phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước nói chung. Vào những thập niên gần đây, chúng ta có thể nhận thấy nền kinh tế của Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh,có tốc độ phát triển kinh tế cao và khá ổn định, vì thế mà nhu cầu nguồn vốn phục vụ cho phát triển đất nước là rất lơn. Nhưng với thời điểm hiện nay, khi mà vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang còn ở những con số khiêm tốn, trong khi kênh huy động vốn ở trong nước lại chưa thực sự phát huy hết hiệu quả, Thị trường chứng khoán thì đang còn trong giai đoạn chứng nước, còn rất non trẻ nên chưa thể trở thành kênh huy động vốn tối ưu nhất của các doanh nghiệp. Ngoài ra, năng lực tài chính của các doanh nghiệp trong nước cũng rất hạn chế, và phần lớn các hoạt động sản xuất, kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay từ các TCTD. Vì thế, ta có thể khẳng định rằng ở nước ta hiện nay, Tín dụng ngân hàng là kênh huy động nhanh nhất, hiệu quả nhất. Các TCTD càng đa dạng hóa các hình thức cho vay bao nhiêu thì càng tạo ra các điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng có thể dễ dàng tìm được cho mình một hình thức phù hợp với khả năng kinh doanh của mình. Qua đó, ta rất dễ nhận thấy mỗi hình thức cho vay trong hoạt động tín dụng của TCTD đều chứa đựng trong mình những ý nghĩa cơ bản, không chỉ riêng đối với từng doanh nghiệp mà còn tạo ra nền tảng để ổn định nền tài chính quốc gia, và đông thòi thiết lập được một hệ thống pháp luật về Tài chính – Tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Từ quá trình nghiên cứu lí luận và tìm hiểu thực tiễn về hoạt động cho vay của TCTD. Tôi_ là 1 sinh viên năm thứ 4 của trường Đại học Luật Hà Nội, đang được các thầy cô hướng dẫn nghiên cứu về môn Luật ngân hầng Việt Nam. Vì thế, Tôi xin chọn đề tài số 3 “Phân loại cho vay của Tổ chức tín dụng và ý nghĩa của việc phân loại này ” để làm bài nghiên cứu khoa học của mình.
Trong quá trình hoàn thành bài nghiên cứu này, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân trọng nhất đến các thầy cô giáo bộ môn Luật ngân hàng_ Khoa Pháp Luật Kinh tế_Trường Đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ tôi rất nhiều, tạo điều kiện để tôi hoàn thành đề tài của mình theo đúng thời gian quy định.
B. PHẦN NỘI DUNG.
I. CƠ SỞ PHÁP LÍ.
Trong bài nghiên cứu khoa học này, tôi đã viện dẫn và sử dụng những văn bản pháp luật về Tài chính_ Ngân hàng sau làm căn cứ pháp lí cho những nhận định của mình
· Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997
· Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 10/2003/QH 11 năm 2003.
· Luật Ngân hàng Nhà nước sửa đổi năm 2010.
· Luật các tổ chức tín dụng năm 1997
· Luật sửa, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2004
· Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2010.
· Quyết định số 1627/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
· Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 127/2005/QĐ – NHNN ngày 3/2/2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1267/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001
· Quyết định số 738/2005/QĐ – NHNN ngày 31/5/2005 về việc sửa đổi, bổ sung khoản 6 Điều 1 của Quyết định số 127/2005/QĐ – NHNN ngày 3/2/2005.
II. PHẦN NỘI DUNG.
II.1. Một số nét khái quát về Pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Tổ chức tín dụng (TCTD) được định nghĩa như sau : “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.”( khoản 1 Điều 20 luật các tổ chức tín dụng năm 1997 sửa đổi bổ sung năm 2004). TCTD ra đời đã đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường đó là quá trình nhận tiền gửi từ nơi thừa vốn và sử dụng nó để cung ứng tài chính cho nơi thiếu vốn, điều này cũng được quy định khá cụ thể trong luật : TCTD sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng “là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”
Căn cứ vào khoản 16 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2004 ( Luật các TCTD năm 2004) thì “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. Hoạt động cho vay cúa TCTD theo quy định của pháp luật gồm những yếu tố cấu thành sau:
Thứ nhất, về chủ thể: hoạt động cho vay bao giờ cũng gồm hai bên tham gia là bên đi vay và bên cho vay. Trong đó , bên cho vay là người có tài sản chưa dùng đến và muốn cho người khác sử dụng để thỏa mãn một số lợi ích của mình. Bên đi vay chính là những người đang cần sử dụng loại tài sản đó để thỏa mãn nhu cầu về kinh doanh, tiêu dùng…
Thứ hai , hình thức pháp lí của hoạt động cho vay chính là hợp đồng tín dụng tài sản. Hợp đồng này được các bên xác lập và thực hiện trên nguyên tắc tự do và thống nhất về ý chí, nguyên tắc tự định đoạt…
Thứ ba, sự kiện cho vay được phát sinh bởi hai hành vi căn bản: Hành vi ứng trước và hành vi hoàn trả một số tiền nhất định là các vật cùng loại. Hành vi ứng trước tài sản do người cho vay thực hiện còn hành vi hoàn trả được thực hiện bởi người vay sau đó một khoảng thời gian theo sự thỏa thuận của hai bên.
Thứ tư, việc cho vay bao giờ cũng dựa trên sự tín nhiệm giữa người cho vay đối với người đi vay về khả năng hoàn trả tiền vay .
Bên cạnh những dấu hiệu chung về quan hệ cho vay thì hoạt động cho vay tín dụng của tổ chức tín dụng còn thể hiện những đặc điểm riêng có, đặc thù của mình, đó là: Việc cho vay của TCTD là hoạt động nghề nghiệp kinh doanh thường xuyên, mang tính chức năng. Không những thế, nó còn là hoạt động kinh doanh có điều kiện, thể hiện: TCTD phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định như phải có vốn pháp định,phải được NHNN cấp giấy phép hoạt động ngân hàng trước khi tiến hành việc ĐKKD theo quy định của pháp luật. Và ngoài việc phải tuân thủ các quy định chung của pháp luật về hợp đồng, hoạt động cho vay của TCTD còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về ngân hàng, thậm chí kể cả các tập quán thương mại về ngân hàng.
II. 2. Phân loại cho vay của Tổ chức tín dụng .
Như ta đã biết , vấn đề phân loại cho vay của TCTD cần phải căn cứ vào nhiều tiêu chí cơ bản khác nhau, và mỗi cách phân loại đó lại đem đến những ý nghĩa và mục đích nhất định.
Sau đây, Tôi xin viện dẫn ra một sô tiêu chí phân loại cho vay của tổ chức tín dụng để làm sáng tỏ yêu cầu của bài nghiên cứu khoa học này.
II.2.1 . Phân loại cho vay của TCTD dựa vào thời hạn sử dụng vốn vay .
Căn cứ vào tiêu chí này, hoạt động cho vay của TCTD có thể phân thành các loại:
II.2.1.1 . Cho vay ngắn hạn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 của Quyết định số 1627/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì “Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng”. Như vậy, ta có thể thấy đây là loại hình cho vay có thời gian dưới 1 năm, vì thế mà mục đích của loại hình cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của khách hàng trong hoạt động kinh doanh hoặc thỏa mãn các nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong thời gian ngắn, cụ thể ở đây là 12 tháng.
· Các loại cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp của TCTD.
+ Cho vay mua hàng dự trữ: Là loại cho vay để tài trợ mua hàng tồn kho như nguyên liệu,bán thành phẩm, giá thành. Đây là loại hình cho vay ngắn hạn chủ yếu của TCTD là ngân hàng. Đặc điểm của loại hình cho vay này là việ ngân hàng sẽ xem xét cho vay từng lần theo từng đối tượng cụ thể, và kì hạn nợ của loại cho vay này cụ thể, bắt đầu từ lúc bỏ tiền mua hàng tồn kho và chấm dứt khi hàng tồn kho đã tiêu thụ và thu được tiền. Phương thức cho vay đối với dự trữ hàng tồn kho được áp dụng là phương thức cho vay ứng trước, thời hạn cho vay gắn liền với chu kì ngân quỹ của doanh nghiệp.
+ Cho vay vốn lưu động : Là loại cho vay nhằm đáp ứng toàn bộ nhu cầu dự trữ hàng tồn kho và đặc điểm gần giống với cho vay mua hàng giữ trữ. Tuy nhiên loại cho vay nhằm đáp ứng toàn bộ nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt của doanh nghiệp ( nhu cầu vốn lưu động thời vụ cho khách hàng). Đặc điểm của loại hình cho vay này thể hiện ổ chỗ: Đối tượng cho vay là toàn bộ nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt,hạn mức tín dụng là cơ sở để ngân hàng cho vay và giải ngân. Và không có kỳ hạn cụ thể cho từng lần giải ngân mà chỉ có thời hạn cho vay cuối cùng và các điều kiện sử dụng vốn vay. Chi phí của món vay gồm có chi phí trả lãi và chi phí ngoài lãi như phí cam kết sử dụng hạn mức. Thời hạn cho vay tùy theo đặc điểm về chu kì sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của từng loại khách hàng,có thể là vài ngày đến 1 năm.
+ Cho vay dựa trên tài sản có: Là loại cho vay dựa trên cơ sở số dư của các khoản phải thu, tồn kho nguyên liệu, thành phẩm. Tài sản bảo đảm cho các khoản vay này là các tài sản được tài trợ. Đối với các khoản phái thu, hoạt động cho vay này được thực hiện thông qua nghiệp vụ triết khấu hoặc nghiệp vụ mua nợ.
+ Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, sau khi nhận được các công trình xây dựng cần phải ứng vốn mua nguyên liệu, thuê thiết bị… để thực hiện thực hiện thi công và khi công trình, hạn mục công trình hoàn thành thì mới được chủ đầu tư thanh toán theo thỏa thuận ở hợp đồng nhận thầu, vì vậy, cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp xây lắp để đáp ứng nhu cầu vốn trong quá trình thi công có những điểm cần chú ý sau: Việc xem xét cho vay chủ yếu phải dựa vào từng hợp đồng nhận thầu; Đối tượng cho vay là tiền thuê nhân công, thiết bị…để thực hiện thi công theo hợp đồng nhận thầu; kỳ hạn nợ được xác định dựa vào kế hoạch thi công theo hợp đồng nhận thầu; nguồn thu nợ là tiền thanh toán của nhà đầu tư;Hợp đồng nhận thầu là cơ sở đảm bảo cho khoản tiền vay.
Ngoài ra, hoạt động cho vay ngắn hạn của TCTD còn được áp dung đối với các loại vay để kinh doanh chứng khoán, vay để kinh doanh bán lẻ và cho vay đối với các định chế tài chính khác.
+ Cho vay chiết khấu giấy tờ có giá: là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới hình thức chuyển nhượng quyền sở hữu chứng từ cho tổ chức tín dụng để nhận một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi mức chiết khấu. Chứng từ có giá là những phương tiện chuyển tải và dự trữ giá trị do những đơn vị được phép phát hành hợp pháp và được pháp luật thừa nhận như: kì phiếu, trái phiếu, tín phiếu, thương phiếu,..
+ Thấu chi: là một nghiệp vụ cho vay ngắn hạn bổ sung vốn lưu động nhằm cân đối ngân quỹ hàng ngày trên tài khoản vãng lai của khách hàng. Nghiệp vụ thấu chi được thực hiện bằng cách cho phép khách hàng được dư nợ tài khoản vãng lai một số lượng tiền nhất định và trong một thời gian nhất định.
II.2.1.2. Cho vay trung hạn.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 của Quyết định số 1627/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì “Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng”. Đây là loại hình cho vay trong đó các bên thỏa thuận thời hạn sử dụng vốn vay là từ 1 – 5 năm. Mục đích của loại cho vay này nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định hay được sử dụng để mua sắm các loại tài sản của khách hàng trong kinh doanh hoặc thảo mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng…
II.2.1.3. Cho vay dài hạn.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 của Quyết định số 1627/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì “cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ 60 tháng trở lên”. Nhưng mục đích của khoản vay này thường là nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư.
Đối với hai hình thức cho vay là trung và dài hạn của TCTD thì phương thức cho vay chủ yếu là cho vay thông thường và tín dụng toàn cầu.
+ Cho vay thông thường: khoản vay này chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu mua sắm máy móc, thiết bị, nhu cầu thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp, tiền vay được thanh toán dần cho ngân hàng theo định kỳ. Số tiền thanh toán định kì có thể là khác nhau.
+ Tín dụng tuần hoàn: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cam kết chính thức dành một hạn mức tín dụng trong thời hạn nhất định có thể từ 1 - 3 năm, hay 5 năm, song thời hạn nợ kí kết trong hợp đồng thường ngắn, và nếu khách hàng thực hiện tốt các điều khoản của hợp đồng tín dụng thì cam kết hạn mức sẽ được tiếp tục.
Hiện nay hầu hết các tổ chức tín dụng đều rất thận trong khi quyết định cho vay trung hạn và dài hạn bởi gặp nhiều khó khăn trong thanh khoản cũng như cơ cấu tài sản của mình. Bởi phần lớn lượng vốn huy động vào đều có kì hạn dưới một năm trong khi vay trung hạn cũng phải 1-3 năm, dài hạn thường trên 5 năm. Mặt khác theo quy định mới của ngân hàng Nhà nước (Theo Thông tư số 15/2009/TT-NHNN) ngân hàng thương mại chỉ được dùng tối đa 30% vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn thay vì 40% như trước đây. Đây cũng là vấn đề rất lớn nếu các tổ chức tín dụng siết chặt cho vay trung dài hạn. Bởi vốn ngắn hạn chủ yếu phục vụ cho sản xuất kinh doanh lưu động, trong khi vốn dài hạn lại đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế về lâu dài. Vốn trung dài hạn tắc, đầu tư phát triển cũng sẽ tắc theo, kinh tế khó long tăng trưởng như mong muốn. Như thế cần có những cơ chế phù hợp để vừa có thể đảm bảo tính thanh khoản cho các ngân hàng đồng thời kinh tế vẫn phát triển vững mạnh
Trong ba hình thức cho vay trên thì các TCTD là ngân hàng được thực hiện tất cả các hình thức sử dụng vốn vay, còn các TCTD phi ngân hàng thì chỉ được thực hiện hoạt động cho vay trung và dài hạn. Điều này cho ta thấy phạm vi về thời hạn cho vay của TCTD là ngân hàng thường diễn ra rộng hơn, phổ biến hơn so với các loại hình TCTD khác.
II.2.2. Phân loại cho vay của TCTD dựa vào tính chất có bảo đảm của khoản vay (hay là mức độ tín nhiệm của khách hàng).
Với tiêu chí này thì ta có thể nhận thấy hoạt động cho vay của TCTD có thể bao gồm các loại sau.
II.2.2.1. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
Đây thực chất là hình thức bảo đảm tín dụng. Nghĩa là TCTD sẽ áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo ra cơ sở kinh tế, pháp lí để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Có thể nhận thấy đây là hình thức cho vay mà trong đó nghĩa vụ trả nợ tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của bên vay hoặc của người thứ ba (người bảo lãnh khaorn tiền vay),
+ Cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp. Đó là việc bên bên vay vốn thế chấp tài sản của mình cho bên cho vay để đảm bảo khả năng chi trả, hoàn trả vốn vay.
Như ta đã biết, thế chấp tài sản là viêc bên đi vay sử dụng bất động sản thuộc sở hữu của mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên bên cho vay.
Đối với thế chấp Bất động sản thì tất cả các BĐS thuộc sở hữu hợp pháp của cá nhân hay tổ chức đều có thể sử dụng để thế chấp vay vốn của TCTD. Khi thế chấp thì hai bên,Ngân hàng và khách hàng phải có thỏa thuận với nhau về việc định giá tài sản thế chấp và kí kết hợp đồng thế chấp có sự chứng nhận hợp pháp của Phòng công chứng.
Đối với việc thế chấp bằng giá trị quyền sử dụng đất, thì do đất đai ở Việt Nam thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lí và thực việc giao đất hoặc cho thuê đất đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội ổn định lâu dài. Trong các chủ thể được giao đất và cho thuê đất ở trên thì chỉ có cá nhân, hộ gia đình và các tổ chức kinh tế mới có thể sử dụng quyền sử dụng đất để làm tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng.
+ Cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố.
Căn cứ vào quy định của các văn bản pháp luật hiện hành thì cầm cố tài sản được hiểu là việc bên đi vay giao tài sản là các động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Động sản cầm cố có thể là loại không cần đăng kí quyền sở hữu, có loại cần đăng kí quyền sở hữu, khi cầm cố tài sản phải được giao nộp cho bên cho vay. Đối với tài sản có đăng kí quyền sở hữu, khi cầm cố hai bên có thể thỏa thuận để bên cầm cố giữ tài sản hoặc giao tài sản cầm cố cho bên thứ ba chông giữ.
+ Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của khách hàng vay mà giá trị tài sản được tạo ra bởi một phần hoặc toàn bộ khoản cho vay của TCTD. Đây là hình thức mà khách hà