Đề tài Phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng QPĐƯ và QPTQ

Tòa án công lý quốc tế là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc. Tòa án công lý quốc tế được thành lập và hoạt động dựa trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và Quy chế Tòa án Công lý quốc tế. Cùng với Hiến chương và Quy chế, cơ sở pháp lý để tòa tiến hành các hoạt động còn bao gồm Nội quy của tòa. Để hiểu rõ hơn vai trò của tòa, đặc biệt là các phán quyết của Tòa sau đây chúng ta cùng đi tìm hiểu đề tài “ Chứng minh rằng : phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng QPĐƯ và QPTQ”.

docx10 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2816 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng QPĐƯ và QPTQ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I – LỜI MỞ ĐẦU Tòa án công lý quốc tế là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc. Tòa án công lý quốc tế được thành lập và hoạt động dựa trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và Quy chế Tòa án Công lý quốc tế. Cùng với Hiến chương và Quy chế, cơ sở pháp lý để tòa tiến hành các hoạt động còn bao gồm Nội quy của tòa. Để hiểu rõ hơn vai trò của tòa, đặc biệt là các phán quyết của Tòa sau đây chúng ta cùng đi tìm hiểu đề tài “ Chứng minh rằng : phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng QPĐƯ và QPTQ”. II – NỘI DUNG 1 – phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế là phương tiện bổ trợ nguồn của Luật Quốc tế. - Trong đời sống quốc tế, tồn tại nhiều loại Tòa án khác nhau như : Tòa án công lý quốc tế của Liên hợp quốc, Tòa án Liên minh Châu Âu, Tòa án Luật biển... Tuy nhiên, khi nói đến phán quyết của Tòa án với vai trò là nguồn bổ trợ của Luật Quốc tế, chúng ta chủ yếu đề cập đến các phán quyết của TACLQT. - Trong học thuyết về Luật quốc tế ở phương Tây thường có quan điểm đề cao quá mức vai trò của các quyết định của tòa án và trọng tài, xuất phát từ việc đề cao vai trò của án lệ đã kiên trì quan điểm cho rằng phán quyết của Tòa án là nguồn của Luật quốc tế vì chứa đựng quy phạm pháp luật. Lập luận này đã trái với Điều 38 của Quy chế Tòa án Liên hợp quốc, rằng “ phán quyết của tòa án được coi là phương tiện bổ trợ để xác định quy phạm pháp luật” - Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế, việc xác định quy tắc xử sự nào đó là quy phạm tập quán thật rất khó khăn phức tạp vì nó không được ghi nhận chính thức trong một văn kiện pháp lý nào. Trong khi đó các quốc gia khi đưa tranh chấp ra giải quyết trước Tòa án quốc tế thường yêu cầu Tòa chỉ ra các quy phạm pháp lý ràng buộc mình (cả QPĐƯ và QPTQ ). - Thực tiễn cho thấy có nhiều QPĐƯ và QPTQ do TACLQT viện dẫn, chỉ rõ trong phán quyết của mình và được coi là cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp ở các vụ việc sau. Như vậy, theo Quy chế của mình, TACLQT khi giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia có quyên áp dụng các phán quyết trước đó của Tòa với tư cách là phương tiện để xác định rõ quy phạm luật quốc tế liên quan đến các bên tranh chấp, giúp cho việc đưa ra các quyết định mới một cách đúng đắn. Trong thực tiễn hoạt động của mình, Tòa án không chỉ xác nhận sự tồn tại thực tế của tập quán quốc tế mà còn đưa ra nhiều định nghĩa và nguyên tắc mới, trở thành cơ sở của Luật tập quán và luật điều ước. -Như vậy, mặc dù phán quyết của TACLQT có vai trò và ý nghĩa to lớn trong quá trình hình thành và phát triển của luật quốc tế cũng như trong thực tiễn quan hệ quốc tế, chúng ta vẫn khẳng định rằng các phán quyết của Tòa không phải là nguồn của luật quốc tế. Không được coi là nguồn của vì tự bản thân các phán quyết của Tòa không sinh ra quy phạm pháp lý có giá trị bắt buộc các chủ thể phải tuân theo. Các quyết định này chỉ là phương tiện hỗ trợ cần thiết để xác định sự đúng sai của các quốc gia khi áp dụng quy phạm luật quốc tế cụ thể nào đó. Nói cách khác, phán quyết của TACLQT chỉ là phương tiện để giải thích một cách chính xác và bảo vệ sự đúng đắn của quy phạm luật quốc tế. Đồng thời các phán quyết lại là phương tiện hỗ trợ để chỉ rõ, xác định sự tồn tại thực tế của quy phạm tập quán quốc tế. 2 –phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng QPĐƯ và QPTQ. Trong thực tiễn hoạt động của Tòa đã có 148 vụ tranh chấp được đưa ra trước Tòa (tính đến tháng 6 năm 2010), Trong số đó có khoảng 120 vụ tranh chấp đã được Tòa phân xử. trong số 148 vụ tranh chấp mà tòa có thẩm quyền giải quyết, 1/3 thông qua điều khoản thỏa thuận trong điều ước quốc tế, 1/3 qua cơ chế tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của tòa và 1/3 theo cơ chế chấp nhận thẩm quyền của tòa theo từng vụ việc. nhiều phán quyết của TACLQT đã có ý nghĩa rất quan trọng, nó không chỉ dàn xếp được tranh chấp mà còn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng QPĐƯ và QPTQ. Sau đây em xin đi chứng minh bằng các phán quyết của Tòa qua một số vụ kiện thực tế: 2.1. phán quyết của TACLQT có vai trò trong việc hình thành QPTQ và QPĐƯ Vụ kiện 1: phán quyết thềm lục địa Biển Bắc ( CHLB Đức / Đan Mạch, CHLB Đức / Hà Lan ) năm 1969 liên quan đến nguyên tắc công bằng trong phân định biển. Sự kiện : Ngày 20/2/1967, hai thỏa thuận thỉnh cầu đã được đăng ký tại Tòa.một do CHLB Đức và Đan Mạch thỏa thuận, một do CHLB Đức và Hà Lan thỏa thuận đưa ra tranh chấp trước tòa. Cả hai tranh chấp này đều liên quan đến việc phân định thềm lục địa Biển Bắc giữa các bên hữu quan. Quyết định ngày 26/4/1968, trên cơ sở nhận xét Đan Mạch và Hà Lan có cùng một yêu cầu. Tòa đã quyết định kết hợp hai vụ kiện này làm một, trong cùng một quá trình tố tụng. Cả hai thỏa thuận thỉnh cầu đều đề nghị Tòa tuyên bố các nguyên tắc và quy phạm của Luật quốc tế có thể áp dụng cho việc phân định giữa các bên vùng Thềm lục địa Biển Bắc thuộc mỗi nước. Tòa được yêu cầu xác định đâu là những nguyên tắc và những quy định của luật quốc tế được áp dụng. Nội dung Phán quyết của Tòa án ngày 20-2-1969 Tòa nêu ra một số khả năng áp dụng nguyên tắc công bằng, lưu ý phải xem xét để bảo đảm các quốc gia sẽ áp dụng các phương thức công bằng một cách tự do, không có giới hạn, từ đó tìm ra một sự cân bằng hợp lý. Các phương pháp được chọn lựa có thể dẫn tới sự chồng lấn các vùng biển. Tòa cho rằng cần phải chấp nhận hoàn cảnh này như là một hệ quả và có thể giải quyết hoặc bằng việc phân chia các vùng chồng lấn bằng con đường thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì bằng cách phân chia thành các phần đều nhau, hoặc bằng các thỏa thuận khai thác chung, giải pháp cuối đặc biệt có vẻ thích hợp cho việc duy trì thống nhất chung của mỏ. Ý nghĩa của phán quyết Thứ nhất, Trong phán quyết lịch sử của mình Tòa án đã khôi phục và phát triển thêm nguyên tắc kéo dài tự nhiên đã được tuyên bố Truman và công việc chuẩn bị của ủy ban luật quốc tế cho Hội nghị lần thứ nhất của Liên hợp quốc về luật biển. Đối với tòa không phải tính tiếp giáp cũng không phải tính kề cận có thể chứng minh cơ bản cho việc mở rộng thẩm quyền quốc gia trên thềm lục địa nằm ngoài lãnh hải mà chính là khả năng sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển đã mang lại danh nghĩa quyền chủ quyền cho quốc gia ven biển trên phần thềm lục địa đó. Tòa đã nêu ra được nguyên tắc: “đất thống trị biển”. Chính chủ quyền của quốc gia ven biển trên lãnh thổ đã ipsofacto một cách đương nhiên đem lại chủ quyền cho họ trên phần thềm lục địa kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển. Ngay cả khi một vùng đáy biển là gần lãnh thổ của một quốc gia hơn là lãnh thổ của mọi quốc gia khác, người ta cũng không thể coi rằng nó thuộc quốc gia này một khi nó không phải là phần mở rộng tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó ra biển. Thứ hai, Tòa đã bác bỏ tính ưu tiên của nguyên tắc đường cách đều trong phân định Tòa đã khái quát hóa và đề xuất các nguyên tắc về thỏa thuận, nguyên tắc về kéo dài tự nhiên, nguyên tắc tính đến các hoàn cảnh đặc biệt và nguyên tắc công bằng trong phân định biển. Phán quyết của Tòa đã tạo bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển của luật biển quốc tế. Thứ ba, Tòa đã phân tích và nêu rõ các điều kiện để một nguyên tắc, một quy phạm mang tính điều ước có thể trở thành một nguyên tắc, một quy phạm tập quán. Vụ kiện 2 : Phán quyết vụ ngư trường Anh – Nauy năm 1951 liên quan đến đường cơ sở thẳng Sự kiện Nửa đầu thế kỷ xx, Anh và Nauy tranh chấp về quyền đánh cá trong khu vực biển ngoài khơi Nauy, phía Bắc của vòng cung bắc cực, Nauy cho rằng họ có quyền bảo tồn nghề cá cho ngư dân của họ trong khu vực này. Vương quốc Anh cho rằng các khu vực này là biển cả và ngư dân của mọi quốc gia đều có quyền đánh cá. Ngày 12-7-1935, Nauy quyết định hoạch định khu vực biển cả đó bằng nghị định. Ngày 28-9-1948, Vương quốc Anh đơn phương thỉnh kiện Tòa án quốc tế xem xét đường hoạch định khu vực đánh cá của Nauy và yêu cầu Tòa tuyên bố Nauy phải bồi thường mọi thiệt hại do việc họ bắt giữ các tàu đánh cá của Anh sau ngày 16-9-1948 tại các vùng biển được coi là biển cả. Nội dung phán quyết ngày 18-12-1951 Phán quyết năm 1951 của Tòa án Công lý quốc tế đã tuyên bố: “Người ta không thể khăng khăng biểu thị đường ngấn nước thủy chiều thấp nhất như một nguyên tắc bắt buộc chạy theo bờ biển tại tất cả các chỗ uốn gập của nó. Người ta cũng thể biểu thị như các ngoại lệ của quy tắc này, các vi phạm nhiều đến nỗi chúng gợi lên các mấp mô của một bờ biển gồ ghề; quy tắc sẽ mất đi trước các ngoại lệ. Toàn bộ một đường bờ biển như vậy đòi hỏi áp dụng một phương pháp khác: đó là đường cơ sở cách đường hình thể của bờ biển một khoảng hợp lý”. Tòa công nhận việc phân định của Na Uy dựa trên kỹ thuật đường cơ sở thẳng: “không trái với luật pháp quốc tế”. ý nghĩa của phán quyết về vụ ngư trường Nauy 18-12-1951 - Phán quyết đã mở đầu cho việc công nhận rộng rãi phương pháp đường cơ sở thẳng dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Các tiêu chuẩn của đường cơ sở thẳng Na Uy qua phán quyết của tòa, đã trở thành các tiêu chuẩn chung được Luật pháp quốc tế thừa nhận và được điển chế hóa trong các công ước của Liên hợp quốc về luật biển- công ước Giơ ne vơ năm 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải và công ước liên hợp quốc về luật biển năm 1982. - Các nguyên tắc áp dụng đường cơ sở thẳng năm 1935 của Nauy đã trở thành các tiêu chuẩn mới của Luật quốc tế, thể hiện trong công ước Giơnevơ về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1958 và điều 4. Công ước 1982, điều 7 của công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 quy định: “1.Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.2.Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do một châu thổ và những đặc điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có thể được lựa chọn dọc theo ngấn nước triều thấp nhất nhô ra xa nhất và, ngay cả trong trường hợp về sau, ngấn nước triều thấp nhất có dịch chuyển vào phía trong bờ, các đường cơ sở đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa đổi theo đúng công ước…” - Trong phán quyết ngư trường Na Uy, Tòa án công lý quốc tế đã cố gắng định nghĩa thế nào là vịnh, thế nào là vịnh lịch sử. Các định nghĩa về vịnh của Tòa án đã đi vào trong điều 7 của công ước năm 1958, điều 10 của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Tuy nhiên công ước đã không đưa ra một định nghĩa nào về vịnh lịch sử mặc dùng có nói đến danh nghĩa vịnh lịch sử trong điều 15. - Trong vụ tranh chấp biên giới đất liền, đảo và biển giữa En Sanvađo và Ônđurát, Tòa đã gặp lại vấn đề vịnh lịch sử trong việc xác định quy chế của Vịnh Fonseca. Trong phán quyết năm 1992 của mình, Tòa đã đi đến kết luận, Vịnh Fonseca là một vịnh lịch sử, mỗi nước ven bờ vịnh có lãnh hải thuộc chủ quyền tiếp tục được đặt dưới chế độ cộng quản, đồng chủ quyền giữa ba nước ven bờ vịnh: En Sanvado, Ônđurát và Nicaragoa. Phán quyết đã góp phần làm sáng tỏ thêm quy chế của một vịnh lịch sử, điều mà công ước 1982 không nói rõ. Như vậy, phán quyết của Tòa án công lý quốc tế đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong việc xác định đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Ngày nay, đường cơ sở thẳng đã trở thành một quy phạm mang tính điều ước và tập quán. 2.2. phán quyết của TACLQT có vai trò trong việc viện dẫn áp dụng QPTQ và QPĐƯ. Vụ kiện :Các hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragoa, và chống lại Nicaragoa (Nicaragoa kiện Mỹ). Sự kiện Ngày 9-4-1984 Nicaragoa gửi đơn đến Tòa khởi kiện Mỹ về vụ tranh chấp liên quan đến trách nhiệm của Mỹ trong việc tiến hành các hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragoa và chống lại Nicaragoa. Đồng thời Nicaragoa cũng yêu cầu chỉ ra các biện pháp bảo đảm cần thiết. Ngày 10-5-1984, Tòa đã nêu ra các quyết định chỉ định các biện pháp bảo đảm. Ngày 26-11-1984, Tòa đã ra phán quyết khẳng định Tòa có thẩm quyền xem xét vụ kiện và chấp nhận đơn khởi kiện của Nicaragoa. Ngày 18-1-1985 Mỹ đưa ra tuyên bố tỏ rõ “không có ý định tiếp tục tham dự bất cứ thủ tục nào liên quan đến vụ kiện”. Ngày 27-6-1986, Tòa ra phán quyết về nội dung: bác bỏ lý do sử dụng quyền tự vệ tập thể chính đáng do mỹ đưa ra, kết luận Mỹ đã vi phạm các nghĩa vụ của luật tập quán quốc tế là không được can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác và không được sử dụng vũ lực chống lại một quốc gia khác xâm phạm đến chủ quyền của quốc gia khác và không được cắt đứt các hoạt động hàng hải thương mại hòa bình. Ngày 29-3-1988 Nicaragoa đã nộp Bị vong lục của mình còn Mỹ vẫn tiếp tục từ chối không tham dự. Tháng 9-1991 Nicaragoa thông báo với Tòa không có ý định tiếp tục theo kiện nữa. Phía Mỹ đã hoan nghênh quyết định này. Ngày 26-9-1988 Tòa ra quyết định chấm dứt vụ kiện. Phán quyết của tòa Phía Mỹ đã vi phạm các nguyên tắc tập quán của Luật quốc tế về cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế cũng như cấm can thiệp vào công việc nội bộ của một quố gia khác. Tòa đã xem xét yêu cầu đòi bồi thường của Nicaragoa và cho rằng Tòa có thẩm quyền xem xét đơn khởi kiện này của Nicaragoa trong một thủ tục khác. Tòa kêu gọi các bên nên hợp tác để tìm kiếm một giải pháp hòa bình phù hợp với nguyên tắc hòa bình các tranh chấp của luật tập quán và đã được khẳng định bởi Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc. Ý nghĩa phán quyết của Tòa Thứ nhất, đây là vụ điển hình trong thực tiễn xét xử của tòa án công lý quốc tế về mặt thủ tục. Nó bao gồm tất cả các bước mà Tòa phải giải quyết trong vấn đề thủ tục: thủ tục xác lập các biện pháp bảo đảm, thủ tục về bác bỏ trước thẩm quyền của Tòa… Thứ hai, đây là vụ điển hình về tính trung lập, vô tư, công bằng và đúng đắn của Tòa vì Tòa phải giải quyết tranh chấp giữa một bên là Mỹ, thành viên thường trực của Hội Đồng Bảo An, cường quốc số một thế giới, một bên là Nicaragoa, nước nhỏ, mới giành được độc lập. Mặc dù có nhiều sức ép, kể cả sự phản đối của phía Mỹ không tham dự tiếp các thủ tục của tòa, Tòa đã xử thắng kiện cho Nicaragoa, trên cơ sở các nguyên tắc của của luật quốc tế. Phán quyết này đã đem lại niềm tin cho các nước đang phát triển vào vai trò của Tòa trong giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế. Thứ ba, phán quyết của Tòa đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết câu hỏi về quan hệ giữa các nguồn của luật quốc tế. Thứ tư, Tòa đã khẳng định tính độc lập của Tòa án đối với luật Điều ước và làm sáng tỏ thêm nội dung các nguyên tắc của luật tập quán. Tòa đã có những đóng góp nhất định trong việc xác định ranh giới giữa nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và quyền con người. Giữa nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và quyền can thiệp nhân đạo … Những vấn đề nóng bỏng của Luật quốc tế và thời sự quốc tế, và tiếp tục là những bài học trong việc giải quyết các xung đột sắc tộc hiện nay tại Nam Tư, Ruan đa… Như vậy trong phán quyết của TACLQT về vụ này Tòa đã viện dẫn áp dụng tập quán cấm sử dụng vũ lực đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế cũng như cấm can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia khác. III – KẾT LUẬN Mặc dù mỗi phán quyết của TACTQT không đương nhiên có giá trị là tập quán quốc tế nhưng trên thực tế vẫn gián tiếp tác động tới thái độ của các quốc gia với vấn đề mà Tòa đã phân xử.Qua những chứng minh trên đây, trên bình diện chung, có thể đánh giá đóng góp quan trọng mà các bản án do Tòa đưa ra đối với sự phát triển của Luật quốc tế là nó vừa là phương tiện bổ trợ nguồn của luật quốc tế, vừa có ý nghĩa quan trọng trong qua trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng các QPTQ và QPĐƯ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội – 2004 Giáo trình Luật quốc tế ( dùng trong các trường Đại học chuyên ngành luật, ngoại giao), Nxb Giáo dục Việt Nam Nguyễn Hồng Thao, Tòa án công lý quốc tế, Nxb. CTQG, Hà Nội - 2000 Công ước của Liên hợp quốc năm 1982 về luật biển Quy chế Tòa án công lý quốc tế.
Luận văn liên quan