Đề tài Phân tích ảnh hưởng của vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa của Việt Nam

Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang thị trờng Mỹ vào năm 1996. Năm 1998, lợng cá lát catfish không xơng đông lạnh của Việt Nam xuất sang đây mới chỉ có 260 tấn. Nhng đến cuối năm 2001, con số ấy đã vọt lên 7.746 tấn. Với giá thành rẻ hơn từ 0,08 đến 1USD/pound và chất lợng không thua kém catfish Mỹ, cá Việt Nam đã gây ảnh hởng không nhỏ tới việc tiêu thụ catfish của Mỹ, bằng chứng là tổng giá trị catfish bán ra của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) giảm mạnh, từ 446 triệu USD năm 2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Dới sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ từ các sản phẩm cá của Việt Nam, CFA đã phải hành động nhằm đánh bật con cá của Việt Nam ra khỏi thị trờng Mỹ. 9/2001 vụ kiện bắt đầu nổ ra bằng việc Mỹ mở cuộc chiến về tên gọi catfish đối với sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trờng này. CFA dựa vào Luật Ngân sách nông nghiệp 107-76 của Mỹ để cấm loại cá này của Việt Nam đợc nhập vào nớc này với tên gọi catfish và đạo luật HR.2646 cấm hoàn toàn việc dùng tên catfish cho các loại cá tra, cá basa của Việt Nam trong tất cả các khâu bán lẻ, bán sỉ, nhà hàng, thông tin, quảng cáo. trong vòng 5 năm. Cha dừng ở đây, CFA vin tiếp vào điều khoản 10806 của đạo luật An ninh nông trại và Đầu t nông thôn mới nhất để xác lập chủ quyền tuyệt đối trên thơng hiệu catfish. Tháng 12/2001, bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, Quốc hội Mỹ đã thông qua lệnh cấm tạm thời (có hiệu lực tới ngày 30/9/2002), theo đó, chỉ có catfish của Mỹ mới đợc gọi là catfish, còn cá của Việt Nam phải đợc gọi bằng tên basa hay tra. Sau khi dự luật đợc thông qua, nó đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ không chỉ của d luận Mỹ mà còn chịu sự phản đối của d luận thế giới. Thợng nghị sĩ Phil Gramm, bang Texas khẳng định: “ Những ngời kiếm sống trong ngành khoa học nuôi cá gọi nó là catfish, vậy cớ sao chúng ta(Quốc hội Mỹ) lại muốn gọi nó khác đi”. Ông Gramm cùng thợng nghị sĩ John Mccain đa ra một điều khoản bổ xung nhằm bác bỏ dự luật cấm Việt Nam sử dụng nhãn catfish

pdf25 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2295 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích ảnh hưởng của vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----[\ [\----- TIỂU LUẬN Đề tài: PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM PHÂN TÍCH ẢNH HỞNG CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM CHƠNG 1: ẢNH HỞNG CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM 1.1 TỔNG QUAN VỀ VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦAMỸ ĐỐI VỚI VIỆT NAM Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang thị trờng Mỹ vào năm 1996. Năm 1998, lợng cá lát catfish không xơng đông lạnh của Việt Nam xuất sang đây mới chỉ có 260 tấn. Nhng đến cuối năm 2001, con số ấy đã vọt lên 7.746 tấn. Với giá thành rẻ hơn từ 0,08 đến 1USD/pound và chất lợng không thua kém catfish Mỹ, cá Việt Nam đã gây ảnh hởng không nhỏ tới việc tiêu thụ catfish của Mỹ, bằng chứng là tổng giá trị catfish bán ra của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) giảm mạnh, từ 446 triệu USD năm 2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Dới sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ từ các sản phẩm cá của Việt Nam, CFA đã phải hành động nhằm đánh bật con cá của Việt Nam ra khỏi thị trờng Mỹ. 9/2001 vụ kiện bắt đầu nổ ra bằng việc Mỹ mở cuộc chiến về tên gọi catfish đối với sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trờng này. CFA dựa vào Luật Ngân sách nông nghiệp 107-76 của Mỹ để cấm loại cá này của Việt Nam đợc nhập vào nớc này với tên gọi catfish và đạo luật HR.2646 cấm hoàn toàn việc dùng tên catfish cho các loại cá tra, cá basa của Việt Nam trong tất cả các khâu bán lẻ, bán sỉ, nhà hàng, thông tin, quảng cáo... trong vòng 5 năm. Cha dừng ở đây, CFA vin tiếp vào điều khoản 10806 của đạo luật An ninh nông trại và Đầu t nông thôn mới nhất để xác lập chủ quyền tuyệt đối trên thơng hiệu catfish. Tháng 12/2001, bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, Quốc hội Mỹ đã thông qua lệnh cấm tạm thời (có hiệu lực tới ngày 30/9/2002), theo đó, chỉ có catfish của Mỹ mới đợc gọi là catfish, còn cá của Việt Nam phải đợc gọi bằng tên basa hay tra. Sau khi dự luật đợc thông qua, nó đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ không chỉ của d luận Mỹ mà còn chịu sự phản đối của d luận thế giới. Thợng nghị sĩ Phil Gramm, bang Texas khẳng định: “ Những ngời kiếm sống trong ngành khoa học nuôi cá gọi nó là catfish, vậy cớ sao chúng ta(Quốc hội Mỹ) lại muốn gọi nó khác đi”. Ông Gramm cùng thợng nghị sĩ John Mccain đa ra một điều khoản bổ xung nhằm bác bỏ dự luật cấm Việt Nam sử dụng nhãn catfish, tuy nhiên, đề nghị của hai ông đã bị bác bỏ (theo báo Washington Post ngày 27/122001). Sau khi giành chiến thắng về tên gọi catfish, Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) tiếp tục mở một cuộc tấn công khác: khởi kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa. Theo Timothy R. Brown, tác giả bài viết “Ngành nuôI cá catfish Mỹ tiếp tục chiến đấu” đăng trên AP ngày 26/2, khơI mào chiến dịch mới chính là những ng dân ở thành phố Indianola (bang Mississipi, nơi đóng đô của CFA và chiếm tới 94% sản phẩm catfish của toàn bộ miền Nam nớc Mỹ). Nhóm ng dân này sẽ thuê hẳn một vài chuyên gia tầm cỡ từ Washington hỗ trợ cho các văn phòng t vấn luật của bang, nhằm nỗ lực chuẩn bị cho đòn trừng phạt đối với cá giá rẻ của Việt Nam. Phó chủ tịch điều hành CFA Hugh Warren quy chụp cho những lô cá xuất khẩu của Việt Nam là những sản phẩm rẻ tiền, kém chất lợng mà ngời ta không thể tìm thấy ở một xởng sản xuất cỡ gia đình nh các trại cá của Mỹ. Ông này cho rằng, mặc dù sản phẩm rẻ tiền của Việt Nam đang chiếm tới 20% thị phần và hấp dẫn những nhà hàng, khách sạn, nhng “ những nhà hàng, khách sạn này chỉ quan tâm tới giá cả chứ chẳng để ý đến chất lợng của sản phẩm”. Phóng viên Timothy nhận xét một cách khách quan rằng, những ngời nuôI cá catfish Mỹ không thể chạy đua về giá với sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam bởi chi phí đầu vào (đặc biệt là về nhân công và thuế ) quá cao. Trớc sức ép của cá da trơn đến từ Việt Nam, giá catfish Mỹ đã rớt thê thảm, từ 0.74 USD/ pound năm 2000 xuống còn 0.58 USD, thậm chí có lúc chỉ khoảng 0.2 USD/ pound. Theo Phó chủ tịch Warren: “ Mức giá nh vậy không đủ bù cho chi phí sản xuất. ít nhất phải bán đợc 65-70 cent/ pound, may ra ngời nuôi cá mới có thể hoà vốn”. Ngày 28/6/2002, CFA đã đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thơng Quốc tế Mỹ (ITC). Họ đã tính toán rất kĩ lỡng trong cuộc đi kiện lần này, bằng chứng đợc thể hiện ngay từ cách nộp đơn kiện của họ: nộp đơn vào đúng lúc 4 giờ chiều ngày làm việc cuối cùng trong tuần (thứ 6, ngày 28/6). Theo luật Mỹchỉ sau 20 ngày nhận đơn kiện, bên bị kiện sẽ phải điều trần trớc ITC. Nh vậy, phía Việt Nam đã mất đI 3 ngày để chuẩn bị. Là đơn kiện nhng khối lợng rất đồ sộ với hơn 200 trang kèm theo 37 phụ lục, trong đó phân tích chi tiết về tình hình thị trờng cá nheo Mỹ, thị phần cá da trơn filê đông lạnh của Việt Nam tại Mỹ cũng nh ảnh hởng của sản phẩm “rẻ tiền” (theo cách gọi của CFA) đối với ngành sản xuất trong nớc. Cha dừng lại ở đó, CFA tiếp tục chiến dịch của mình bằng cách nộp đơn lên Bộ Thơng mại Mỹ (DOC) cho rằng, đã xuất hiện “tình trạng khẩn cấp”.để chứng minh điều đó CFA đã đa ra các luận điểm: + Các nhà xuất khẩu Việt Nam biết cá tra, cá basa filê đông lạnh bị bán phá giá. + Các nhà xuất khẩu có thông tin về việc áp thuế chống phá giá đối với công ty của mình với mức 25% hoặc cao hơn nữa trong giai đoạn điều tra ban đầu của DOC. + Các nhà xuất khẩu Việt Nam đã tăng số lợng hàng sang Mỹ sau khi CFA nộp đơn yêu cầu điều tra chống phá giá . + Tính từ ngày 28/6/2002, số lợng hàng xuất khẩu sang Mỹ tăng ở mức 15% hoặc cao hơn nữa so với thời gian trớc ngày nộp đơn yêu cầu điều tra chống phá giá. + Cần áp dụng hồi thuế chống phá giá để đảm bảo hiệu quả của thuế chống phá giá sẽ đợc ban hành vào ngày 24/1/2003. Tháng 11/2002 bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, DOC đã kết luận Việt Nam là nớc có nền kinh tế phi thị trờng, việc kết luận này dựa trên đánh giá theo các tiêu chí của Mỹ nó đặt cơ sở cho việc xem xét áp dụng mức thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng cá tra, cá basa của Việt Nam. Ngày 28/1/2003, DOC tạm thời xác định mức thuế chống bán phá giá đối với cá tra, cá basa của Việt Nam trong khoảng từ 31,45% - 63,88% tuỳ theo nhóm mặt hàng và doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa của nớc ta. Cụ thể nh sau: Tên công ty Mức thuế Agifish 31,45% Cataco 41,06% Nam Việt 38,09% Vĩnh Hoàn 37,94% Các công ty khác có tham gia vụ kiện 36,76% Các công ty không tham gia vụ kiện 63,88% Tháng 3/2003, DOC đã cử đoàn quan chức sang Việt Nam để nghiên cứu điều tra tình hình sản xuất cá tra, cá basa tại các tỉnh vùng DBSCL của Việt Nam để xác định lần cuối mức thuế xuất chống bán phá giá. Các doanh nghiệp Việt Nam đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của đoàn điều tra và chứng minh năng lực cạnh tranh dựa trên quy trình tổng hợp khép kín, từ sản xuất con giống, nuôi cá thơng phẩm, đến chế biến và xuất khẩu các sản phẩm cá tra, cá basa. Tuy nhiên, đoàn điều tra của DOC đã bác bỏ các tài liệu từ phía các doanh nghiệp đa ra và không công nhận quy trình khép kín trong việc sản xuất cá tra, cá basa. Họ chỉ chấp nhận tính giá thành sản phẩm này từ khâu chế biến và đem so sánh nó với nớc thứ 3 là Bangladesh một nớc không có quy trình sản xuất khép kín nh Việt Nam. Đầu tháng 5, Bộ Thơng mại Mỹ đã gợi ý Bộ Thơng mại hai bên sẽ tiến hành đàm phán “ về một thoả thuận về đình chỉ vụ kiện” này. Từ 2-9/5/2003, hai bên đàm phán, nhng do quan điểm của hai bên rất khác nhau, cả về phơng pháp luận và mức độ tiếp cận thị trờng Mỹ cho mặt hàng cá tra, cá basa filê đông lạnh của Việt Nam nên hai bên đã không đạt đợc thoả thuận cuối cùng. Ngày 17/6/2003, ITC mở phiêu điều trần vể vụ kiện cá tra, cá basa . Trong buổi điều trần này, đại diện của chính phủ Việt Nam và đại diện của VASEP đã phát biểu trớc ITC về vụ kiện này và yêu cầu Mỹ xem xét vụ kiện một cách khách quan. Tuy nhiên, đến ngày 23/7/2003 ITC đa ra phán quyết cuối cùng về vụ kiện cá tra, cá basa. Theo đó, cơ quan này đã khẳng định các doanh nghiệp Việt Nam bán cá tra, cá basa vào thị trờng Mỹ thấp hơn giá thành, gây tổn hại tới ngành sản xuất cá da trơn của Mỹ và ấn định mức thuế suất bán phá giá rất cao, từ 36.84-63.88%.Cụ thể nh sau: Tên công ty Mức thuế Agifish 44,76% Cataco 45,55% Nam Việt 52,90% Vĩnh Hoàn 36,84% Các công ty khác có tham gia vụ kiện 44,66% Các công ty không tham gia vụ kiện 63,88% Sau khi đa ra phán quyết thiếu công bằng, đến ngày 7/8/2003, Bộ Thơng mại Mỹ chính thức công bố áp đặt thuế chống bán phá giá đối với 11 doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mặt hàng filê đông lạnh cá tra, cá basa vào thị trờng này.Về phía Việt Nam, sau khi lấy ý kiến, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam đều nhất trí tiếp tục theo đuổi vụ kiện. VASEP sẽ nộp đơn kiện lên toà án quốc tế thơng mại Mỹ. 1.2 QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN Năm 1998, lợng cá tra, cá basa filê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu sang thị trờng Mỹ chỉ có 260 tấn, nhng đến năm 2001 con số này đã tăng vọt lên 7.746 tấn. Lo ngại trớc sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ đó, hiệp hội nuôi catfish ở các tiểu bang Mississipi, Lousiana, Askansa, Alabama đã sử dụng vận động hành lang (Lobby) để bảo vệ quyền lợi kinh tế của mình, dới áp lực của các lobby của CFA buộc các nghị sĩ ở các tiểu bang miền Nam phải có tác động tới Quốc hội Mỹ ra nghị quyết cản trở nhập cá tra, cá basa của Việt Nam vào Mỹ. Tờ Washington Post ngày 10/9/2001 viết: “ Việt Nam đang bán phá giá sang Mỹ hàng ngàn tấn cá basa trong năm nay, gây thiệt hại cho các nhà nuôi cá nội địa. Nhiều nghị sĩ muốn Quốc hội yêu cầu gắn nhãn sản phẩm Việt Nam cho mặt hàng này”. Hai hạ nghị sĩ Dân chủ, Marion Berry và Mike Ross của bang Arkansar(nơi có nguồn cung cấp cá basa lớn thứ 3 ở Mỹ, sau Mississipi và Alabama) yêu cầu các hãng bán buôn không chỉ xác định rõ xuất xứ của cá basa Việt Nam, mà còn gắn cho sản phẩm này mác “basa Mekong”, “cá trê” hoặc “cá trê basa” để phân biệt với cái mà họ gọi là cá basa Mỹ “thứ thiệt”. Hạ nghị sĩ Berry đã theo đuổi vấn đề này với giới chức thơng mại của Tổng thống Mỹ và cũng có dịp đề cập với các quan chức Việt Nam. Ông Berry tuyên bố, sẽ tìm cách đa các điều khoản trên vào dự luật khi nó đợc trình trớc Hạ viện hoặc đợc đa ra thảo luận tại Thợng viện Mỹ tới đây. Duới sự tác động mạnh mẽ của lobby, tháng 9/2001 các đại biểu miền Nam nớc Mỹ đã trình lên Quốc hội để tránh dùng từ catfish cho việc mua bán cá tra, cá basa trên thị trờng Mỹ. Không những thế, chính quyền liên bang còn quyết định chi 6 triệu USD để mua catfish cho chơng trình ăn tra ở các trờng học, chiêu bài này đã làm tăng hình ảnh về thơng hiệu catfish cho cá da trơn của Mỹ. Đến tháng 12/2001 Quốc hội Mỹ thông qua lệnh cấm tạm thời, theo đó, chỉ có catfish của Mỹ mới đợc gọi là catfish, còn cá của Việt Nam phải đợc gọi bằng tên basa hay tra. Vậy do đâu lại có lệnh cấm oái ăm về tên gọi nh vậy? Các nhà vận động hành lang cho ng dân Mỹ lập luận rằng, cá của Việt Nam không hẳn là catfish và ngời Việt Nam đang lợi dụng thành quả tiếp thị của những ngời nuôi cá Mỹ. Tuy nhiên, sau khi lệnh cấm trên có hiệu lực, cá tra, cá basa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trờng Mỹ vẫn đợc ngời tiêu dùng chấp nhận, điều đó chứng tỏ rằng sản phẩm này vẫn đợc ngời dân Mỹ chấp nhận và cũng khẳng định rằng cá Việt Nam không “lợi dụng thành quả tiếp thị của các nhà nuôi cá Mỹ”, cá của Việt Nam đợc ngời tiêu dùng Mỹ chấp nhận là do có lợi thế về giá cả và chất lợng. Lo ngại trớc tình hình đó, CFA lại bắt đầu một chiến dịch chống cá tra, basa filê đông lạnh của Việt Nam bằng cách kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá sản phẩm này sang thị trờng Mỹ. Chiến dịch đợc khơi mào ở thành phố Indianola (bang Mississipi, nơi đóng đô của CFA và chiếm tới 94% sản phẩm catfish của toàn bộ miền Nam nớc Mỹ). Nhóm ng dân này sẽ thuê hẳn một vài chuyên gia tầm cỡ từ Washington hỗ trợ cho các văn phòng t vấn luật của bang và vận động hành lang cho vụ kiện. Chiêu bài mà họ sử dụng trong cuộc chiến này đó là qui cho những lô cá xuất khẩu của Việt Nam là những sản phẩm rẻ tiền, kém chất lợng mà ngời ta không thể nào tìm thấy ở một xởng sản xuất cỡ gia đình nh ở các trại cá của Mỹ ( phó Chủ tịch điều hành CFA). Ông này cho rằng mặc dù sản phẩm rẻ tiền của Việt Nam đang chiếm tới 20% thị phần và rất hấp dẫn các nhà hàng, khách sạn, nhng “những nhà hàng khách sạn này chỉ quan tâm tới giá cả chứ chẳng để ý tới chất lợng của sản phẩm. Thêm vào đó các nhà vận động hậu trờng cho vụ kiện còn cho rằng cá tra, cá basa của Việt Nam đợc nuôi trong môi trờng bị nhiễm chất độc màu da cam gây ảnh hởng tới sức khoẻ của ngời tiêu dung, trong khi đó chính ngời Mỹ đã rải chất độc này trong cuộc chiến tranh với Việt Nam. Ngày 28/6/2002, CFA đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thơng quốc tế Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa sang thị trờng Mỹ. Cùng với thời gian đó, ngày 2/7/2002, hai nghị sĩ Mike Ross và Ronnie Shows, đại diện cho CFA lại gửi th trực tiếp đến bà Deanna Tanner Okun, Chủ tịch Uỷ ban Hiệp thơng Quốc tế Mỹ, nêu luận điểm: “ Đại diện cho những ngời nuôi catfish Mỹ, chúng tôi khẩn cấp đề nghị Uỷ ban cân nhắc một cách có thiện chí đối với đơn kiện của CFA về việc cá tra, cá basa filê đông lạnh nhập từ Việt Nam đợc bán phá giá, gây cạnh tranh và làm thiệt hại tới các nhà nuôi cá catfish nội địa.” Ngày 28/1/2003, DOC ra quyết định tạm thời xác định mức thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm cá của Việt Nam trong khoảng 31,45% - 63,88%, quyết định này của DOC đa ra đã bất chấp luận điểm của Việt Nam đa ra: việc sản xuất cá tra, basa của Việt Nam đợc thực hiện theo quy trình liên hoàn, khép kín. DOC nói cha xem xét đến yếu tố này do còn nhiều khúc mắc. Đến tháng 3/2003, DOC đã cử đoàn quan chức sang Việt Nam khảo sát, chính họ đã thừa nhận quá trình sản xuất, chế biến cá tra, basa ở Việt Nam là theo chu trình khép kín. Song, ở quyết định cuối cùng, DOC lại cho rằng, ở Bangladesh không có doanh nghiệp nào sản xuất theo chu trình khép kín nh các doanh nghiệp tại Việt Nam, nên giá thành sản xuất đợc tính từ giai đoạn chế biến. Tại sao họ lại đa ra quyết định trái ngợc lại với những gì họ đã khẳng định? Đó chính là do áp lực của các lobby của các tập đoàn nuôi cá da trơn Mỹ. Cuối tháng 4/2003, Bộ Thơng mại Mỹ đã gợi ý Bộ Thơng mại hai bên sẽ tiến hành đàm phán “ về một thoả thuận đình chỉ vụ kiện” này. Từ ngày 2-9/5/2003, hai bên đã tiến hành đàm phán nhng do quan điểm rất khác nhau nên cuộc đàm phán đã không đạt đợc thoả thuận cuối cùng. Mỹ đã đa ra hạn mức xuất khẩu cá tra, basa filê đông lạnh của Việt Nam vào Mỹ với mức rất thấp và ấn định giá bán xuất khẩu rất cao, không thực tế nhằm cản trở việc nhập khẩu sản phẩm cá tra, basa của Việt Nam. Trong cuộc đàm phán này, Việt Nam dựa vào chu trình sản xuất khép kín đối với loại sản phẩm này và đề xuất áp dụng hạn ngạch đối với cá tra, cá basa ở các mức: năm 2003 bằng 90%; năm 2004 bằng 95%; năm 2005 bằng 100% mức năm 2002. Ngày 23/7/2003, ITC tiến hành bỏ phiếu để đa ra kết luận, tham gia bỏ phiếu có 4 thành viên của ITC ( thiếu 2 ngời) và cả 4 thành viên này đều bỏ phiếu thuận theo DOC và khẳng định Việt Nam đã bán phá giá cá tra, basa sang thị trờng Mỹ. Về phía Việt Nam, theo luật của Mỹ, công ty đại diện pháp lý không đợc sử dụng vận động hành lang, vì vậy, VASEP đã thuê hai công ty nổi tiếng để thực hiện việc này. Nhờ việc sử dụng vận động hành lang, chúng ta đã có đợc sự ủng hộ của 6 thợng nghị sĩ, các nghị sĩ này đã yêu cầu Quốc hội Mỹ xem xét lại các quyết định của mình trong cả cuộc chiến về tên gọi catfish cũng nh cuộc chiến chống bán phá giá, nhng những yêu cầu này đã bị bác bỏ. Trong thời gian diễn ra vụ kiện có rất nhiều tờ báo nổi tiếng lên tiếng ủng hộ Việt Nam, và sản phẩm cá tra, cá basa đã đợc rất nhiều d luận Mỹ ủng hộ. Ngày 7/8/2003, DOC chính thức công bố áp đặt thuế chống bán phá giá đối với 11 doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu cá tra, cá basa filê đông lạnh sang thị trờng nớc này. Sau khi đa ra quyết định, đã có rất nhiều d luận trên thế giới phản đối kết luận này của Mỹ, trong đó có sự chỉ trích của Thủ tớng Malayxia và của Tổng Th kí Liên Hợp Quốc. Cũng trong ngày 7/8, VASEP đã gửi đơn kiện lên Toà án Quốc tế Thơng mại Hoa Kỳ, các thành viên của VASEP đều nhất trí theo đuổi vụ kiện này tới cùng . “VASEP sẽ kiện về sự bất nhất giữa quyết định sơ bộ và quyết định cuối cùng của ITC, họ không tôn trọng ngay chính kết luận và lời cam kết của họ” ( theo lời của ông Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Th kí VASEP). CHƠNG 2: PHÂN TÍCH ẢNH HỞNG CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM 2.1 KHÁI NIỆM VẬN ĐỘNG HÀNH LANG 2.1.1 ĐỊNH NGHĨA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG Vận động hành lang hay còn gọi là lobby là việc các quan chức chính phủ, các cá nhân có uy tín đại diện cho một cộng đồng ngời đa ra ý kiến đóng góp vào các dự thảo luật của chính phủ, kêu gọi sự ủng hộ của các cá nhân khác hoặc thơng lợng các vấn đề khi xảy ra tranh chấp nhằm đạt đợc lợi ích của cộng đồng mà mình đại diện. 2.1.2 PHƠNG THỨC VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRÊN THỊ TRỜNG MỸ Mỹ là quê hơng của chủ nghĩa lobby(lobbism), không chỉ ở thị trơng Mỹ, mà ngay tại các thị trờng khác lobby đợc coi là một hoạt động bình thờng và rất tích cực. Washington là thủ đô của dân chuyên lobby, gồm 129 cựu nghị sĩ thờng xuyên “lo lắng” của những cộng đồng, chủng tộc khác nhau. Lobby ở Mỹ đợc thành lập thành nhóm thờng đợc gọi là “các đại lý có ảnh hởng”. Các nhóm lobby ở Washington đạt đợc rất nhiều hiệu quả, khi mỗi nhóm xuất phát từ quyền lợi bản thân tiến hành giám định kĩ thuật chi li tỷ mỉ ( và biết rằng các đối thủ cạnh tranh không hề kém cạnh) và trả giá cho việc này. Theo thống kê, hiện nay có khoảng 3700 nhóm lợi ích đặc biệt đăng kí vận động hành lang. Việc vận động hành lang đợc thực hiện ở tất cả các khía cạnh trên đất Mỹ từ kinh tế, chính trị, pháp luật...Đối với các nghị sĩ Quốc hội Mỹ thì vận động hành lang là hoạt động cần thiết và không thêt tách rời đối với tiến trình lập pháp của Hoa Kỳ. Theo thống kê, có hơn 90% nỗ lực của các lobby hớng vào giải quyết các vấn đề đối nội, tuy nhiên cung có khoảng 600 chuyên gia thờng xuyên làm việc với Quốc hội Mỹ về vấn đề đối ngoại. Đối với tiến trình lập pháp, các lobby thờng trực tiếp đa ra các dự thảo luật hoặc đóng góp ý kiến của mình cho các dự thảo luật và vận động để tranh thủ sự ủng hộ của các nghị sĩ Quốc hội khác nhằm đạt đợc lợi ích của nhóm cộng đồng do mình đại diện. Về chính trị, vận động hành lang ảnh hởng trực tiếp tới quá trình quá trình bầu cử của một quốc gia, đặc biệt là ở Mỹ bầu cử theo phổ thông đầu phiếu và Hạ viện phải ra ứng cử định kì hai năm một lần. Các cử tri có thể thể hiện sự ủng hộ của mình cho một nghị sĩ không chỉ bằng các lá phiếu mà có thể bằng cả việc đóng góp tiền cho quỹ bầu cử của nhân vật ấy. Từ đó các nghị sĩ quốc hội nhận ra rằng trách nhiệm của họ là làm hàI lòng các cử chi đã bỏ phiếu cho họ. Để làm đợc điều đó, họ phải bỏ lá phiếu lập pháp phản ánh đợc phần lớn mối quan tâm của các cử chi hoặc chuẩn bị để bào chữa không bị bỏ phiếu phản đối khi thời gian bầu cử tới gần. Mặc dù các hạ nghị sĩ đơng nhiệm thờng đợc giới lãnh đạo Hạ viện và Thợng viện chỉ thị bỏ phiếu theo quan điểm của Đảng nhng họ vẫn chú ý tới kết quả của các cuộc thăm dò d luận quần chúng và quan điểm của các cử tri ở các quận hoặc các bang của họ. Các hạ nghị sĩ đơng nhiệm đặt tầm quan trọng rất lớn vào các quan điểm chính sách đợc bày tỏ trong th, các cuộc điện thoại, các th điện tử, các cuộc gặp gỡ cá nhân với những cử tri khu vực bầu cử. Cứ mỗi cá nhân gọi điện thoại hoặc viết một lá th cho quan chức do mình bầu ra có thể cho rằng có thêm 10 công dân đợc quyền bầu cử khác ủng hộ quan điểm đó. Do vậy mà ảnh hởng của vận động hành lang có thể đợc nhân lên 10 lần. ở Mỹ, nếu một Nghị sĩ Quốc hội nhận đợc một số lợng lớn những ý kiến phản hồi của cử tri về một vấn đề và nhà lãnh đạo yêu cầu ông ta bỏ phiếu ngợc lại với những ý kiến của cử chi, thờng là tiếng nói của cử tri sẽ giành đợc sự ủng hộ cuối cùng của lá phiếu. Các cử chi cũng có thể tăng cờng ảnh hởng của mình bằng cách t
Luận văn liên quan