Liên kết, hợp tác là tiền đề có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của một nền kinh tế. Ở đó, các tổ chức, cá nhân thường xuyên phải quan hệ với nhau, xác lập và thực hiện các giao dịch để hướng tới những lợi ích nhất định. Dưới góc độ pháp lý, các thỏa thuận hợp pháp có giá trị ràng buộc giữa các bên và được pháp luật bảo vệ. Lợi ích của một chủ thể chỉ được thỏa mãn khi đối tác của họ thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đã cam kết. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, việc thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ của các bên còn xảy ra khá phổ biến. Vì vậy, việc xây dựng một cơ chế thích đáng để xử lý là vấn đề luôn được các nhà lập pháp quan tâm.
Ở Việt Nam, từ năm 2005, khi Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 được sửa đổi, cơ bản, vấn đề xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng đã có những thay đổi rõ nét, góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn mấy năm qua về hợp đồng nói chung và các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng nói riêng đã phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc. Các nguyên nhân chủ yếu là pháp luật còn tồn tại sự chồng chéo, không thống nhất; nhiều trường hợp còn chưa có quy phạm điều chỉnh. Mặt khác, một số quy định còn có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, dẫn đến sự áp dụng không thống nhất trong thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, đề tài “Phân tích các hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán tài sản theo quy định của Luật dân sự và các hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán hàng hoá theo quy định của Luật thương mại” sẽ làm rõ thêm các quy định của pháp luật liên quan đến chế tài hợp đồng.
16 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2494 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích các hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán tài sản theo quy định của Luật dân sự và các hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán hàng hoá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Liên kết, hợp tác là tiền đề có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của một nền kinh tế. Ở đó, các tổ chức, cá nhân thường xuyên phải quan hệ với nhau, xác lập và thực hiện các giao dịch để hướng tới những lợi ích nhất định. Dưới góc độ pháp lý, các thỏa thuận hợp pháp có giá trị ràng buộc giữa các bên và được pháp luật bảo vệ. Lợi ích của một chủ thể chỉ được thỏa mãn khi đối tác của họ thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đã cam kết. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, việc thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ của các bên còn xảy ra khá phổ biến. Vì vậy, việc xây dựng một cơ chế thích đáng để xử lý là vấn đề luôn được các nhà lập pháp quan tâm.
Ở Việt Nam, từ năm 2005, khi Bộ luật Dân sự 2005 Từ nay gọi tắt là BLDS
và Luật Thương mại 2005 Từ nay gọi tắt là LTM
được sửa đổi, cơ bản, vấn đề xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng đã có những thay đổi rõ nét, góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn mấy năm qua về hợp đồng nói chung và các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng nói riêng đã phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc. Các nguyên nhân chủ yếu là pháp luật còn tồn tại sự chồng chéo, không thống nhất; nhiều trường hợp còn chưa có quy phạm điều chỉnh. Mặt khác, một số quy định còn có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, dẫn đến sự áp dụng không thống nhất trong thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, đề tài “Phân tích các hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán tài sản Từ nay gọi tắt là HĐMBTS
theo quy định của Luật dân sự và các hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán hàng hoá Từ nay gọi tắt là HĐMBHH
theo quy định của Luật thương mại” sẽ làm rõ thêm các quy định của pháp luật liên quan đến chế tài hợp đồng.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Một số khái niệm chung
Khái niệm về HĐMBTS
Hợp đồng dân sự là khái niệm chung nhất và cũng là cơ bản nhất trong chế định hợp đồng theo pháp luật Việt Nam. Khái niệm HĐMBTS được đề cập tại điều 428 BLDS, theo đó “HĐMBTS là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”. Qua định nghĩa về HĐMBTS được nêu trong điều luật, có thể thấy, HĐMBTS có những đặc điểm pháp lý sau đây:
Thứ nhất, là hợp đồng ưng thuận
Thứ hai, là hợp đồng có đền bù
Thứ ba, là hợp đồng song vụ
Thứ tư, HĐMBTS là hợp đồng có mục đích chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản. Vì vậy, khi hợp đồng được giao kết, sẽ phát sinh hậu quả pháp lý là chấm dứt quyền sở hữu của một chủ thể cụ thể và phát sinh quyền của chủ sở hữu mới đối với tài sản.
Khái niệm về HĐMBHH
Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lí là hợp đồng mua bán hàng hoá. HĐMBHH có bản chất chung của hợp đồng, là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Dù LTM không đưa ra định nghĩa về HĐMBHH song có thể các định bản chất pháp lí của HĐMBHH trong thương mại trên cơ sở Điều 428 của BLDS về HĐMBTS. Do đó, HĐMBHH trong thương mại là một dạng cụ thể của HĐMBTS, dù vẫn mang những nét đặc thù riêng. HĐMBHH có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể, HĐMBHH được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương nhân, các cá nhân tham gia hoạt động thương mại thường xuyên.
Thứ hai, về hình thức, HĐMBHH được thiết lập theo cách thức nào mà cả hai bên thể hiện được sự thỏa thuận mua bán hàng hóa giữa các bên. Hình thức của HĐMBHH được quy định tại Điều 24 LTM
Thứ ba, về đối tượng, HĐMBHH có đối tượng là hàng hóa. LTM quy định :
“Hàng hoá bao gồm :
a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;b) Những vật gắn liền với đất đai.”
Như vậy, hàng hoá trong thương mại là đối tượng mua bán có thể là hàng hoá hiện đang tồn tại hoặc sẽ có trong tương lai, hàng hoá có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại và phải loại trừ một số hàng hoá đặc biệt chịu sự điều chỉnh riêng như cổ phiếu, trái phiếu…
Thứ tư, về nội dung, HĐMBHH thể hiện quyền và nghĩa vụ cả các bên trong quan hệ mua bán, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bên bán.
Vi phạm hợp đồng mua bán
BLDS cũng như LTM đều không đề cập đến: thế nào là hành vi vi phạm HĐMB tài sản/hàng hóa. Tuy nhiên, dựa trên cơ sở về Điều 302 BLDS về Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự, có thể xây dựng những trường hợp được coi là vi phạm HĐMB tài sản/hàng hóa như sau:
Bên bán vi phạm HĐMB tài sản/hàng hóa và buộc phải chịu chế tài (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác) khi không thực hiện nghĩa vụ giao tài sản/hàng hóa hoặc giao không đúng, không đủ số lượng cũng như chất lượng như đã cam kết.
Bên bán không cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản/hàng hóa là đối tượng của HĐMB tài sản/hàng hóa cho bên mua, không thông báo về những khuyết tật của tài sản/hàng hóa cho bên mua.
Bên bán không có quyền sở hữu đối với tài sản/hàng hóa là đối tượng của HĐMB tài sản/hàng hóa.
Bên mua không thực hiện nghĩa vụ giao tiền, hoặc thực hiện nghĩa vụ giao tiền không đúng thời gian, địa điểm như đã cam kết.
Bên vi phạm, đã vi phạm một trong những trường hợp đã nêu trên, dù là bên bán hay bên mua, đều phải chịu chế tài do vi phạm HĐMB tài sản/hàng hóa theo quy định của pháp luật (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác).
Tuy nhiên, trong trường hợp cá biệt, trong HĐMB tài sản/hàng hóa, nếu một bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình do lỗi của bên kia thì có quyền yêu cầu bên kia vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình hoặc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (điều 417 BLDS); nếu một bên không thực hiện được nghĩa vụ mà các bên đều không có lỗi thì bên không thực hiện được nghĩa vụ không có quyền yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong trường hợp một bên đã thực hiện được một phần nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu bên kia thực hiện phần nghĩa vụ tương ứng đối với mình (điều 418 BLDS).
II. Chế tài trong hợp đồng mua bán tài sản
Vi phạm hợp đồng là việc một bên chủ thể trong hợp đồng đã không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ những nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là việc bên vi phạm hợp đồng phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi mà pháp luật qui định do việc vi phạm hợp đồng. Cụ thể là phải gánh chịu những chế tài đã được BLDS 2005 quy định dưới đây.
1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng:
Là việc triển khai tất cả các nội dung mà các bên đã cam kết trong hợp đồng, thực hiện hợp đồng do đó là một hệ quả tất yếu của việc giao kết hợp đồng. Các bên phải hoàn thành nghĩa vụ của mình để bảo đảm quyền lợi cho phía bên kia. Nghĩa vụ chuyển giao tài sản là nghĩa vụ phổ biến trong hợp đồng mua bán tài sản. Bên có nghĩa vụ chuyển giao tài sản phải thực hiện nghĩa vụ của mình và việc không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài sản là một trong các nguyên nhân làm phát sinh TNDS do vi phạm hợp đồng.
Hành vi vi phạm là hành vi đã không thực hiện đúng những nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng:
+ Không thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng.
+ Thực hiện không đúng các nghãi vụ như đã thỏa thuận.
+ Thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ đã thỏa thuận
Đối với các trường hợp thực hiện nghĩa vụ không đúng thời gian thỏa thuận, như thực hiện trước thời hạn hoặc thực hiện muộn nghĩa vụ chuyển giao tài sản, thì việc chậm nghĩa vụ cũng là một căn cứ khác làm phát sinh trách nhiệm của bên vi phạm nghĩa vụ.
Việc thực hiện hợp đồng vẫn là mối quan tâm hàng đầu của các bên khi tham gia kí kết hợp đồng nên nếu xảy ra trường hợp nghĩa vụ của hợp đồng được thực hiện không đúng, bên có quyền trước tiên thường áp dụng chế tài buộc vi phạm thực hiện đúng hợp đồng, đảm bảo cho các bên đạt được các lợi ích mà họ mong muốn từ việc giao kết hợp đồng. Trên thực tế có những trường hợp tiền phạt vi phạm hay tiền bồi thường thiệt hại không thể thay thế được các lợi ích từ việc thực hiện đồng. Trừ khi đã cố gắng nhưng không khắc phục được vi phạm, bên có quyền mới áp dụng các biện pháp chế tài khác như hủy bỏ hợp đồng, phạt vi phạm (nếu hai bên có thỏa thuận) hay yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có thiệt hại xảy ra).
2. Phạt vi phạm
BLDS 2005 đã xác định bản chất của phạt vi phạm hợp đồng là một trong các nội dung của hợp đồng mà các bên có thể thỏa thuận ( khoản 7 Điều 402 BLDS năm 2005). Với vị trí là một điều khoản của hợp đồng, phạt vi phạm đóng vai trò như một loại trách nhiệm dân sự khi các bên tham gia hợp đồng vi phạm hợp đồng. Phạt vi phạm chỉ áp được áp dụng theo sự thỏa thuận của các bên, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm (khoản 1 Điều 422 BLDS năm 2005).
Cũng theo quy định tại khoản 3 Điều 422 BLDS năm 2005, các bên khi đã thoat thuận phạt vi phạm vẫn có thể thỏa thuận hoặc không thỏa thuận về vấn đề bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm. Nếu có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Như vậy, phạt vi phạm có thể được các bên áp dụng như một hình thức trách nhiệm đơn nhất hoặc đồng thời với trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Mức phạt vi phạm là một khoản tiền nhất định mà bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp cho bên bị vi phạm. Các bên có thể ấn định một mức phạt nhất định khi thỏa thuận hợp đồng hoặc chỉ thỏa thuận một mức phần trăm tương đối dựa trên phần nghĩa vụ bị vi phạm và mức đó bị giới hạn bởi các quy định của pháp luật. Tại BLDS 2005, mức phạt vi phạm được quy định mở, tức là để cho các bên tự thỏa thuận mức phạt vi phạm (khoản 2 Điều 422 BLDS 2005). Khi được tự do thỏa thuận mức phạt vi phạm, thì vấn đề khoản tiền phạt là bao nhiêu hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng.
Khi áp dụng điều khoản phạt vi phạm, các bên có thể thỏa thuận một khoản tiền cụ thể, cũng có thể đề ra mức phạt dựa trên giá trị nghĩa vụ của hợp đồng. Trong BLDS 2005 không có quy định nào về giới hạn của mức phạt vi phạm.
3. Bồi thường thiệt hại
Đây là hình thức TNDS nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Trong các hình thức TNDS trong hợp đồng thì BTTH là một hình thức trách nhiệm thông dụng nhất.
Trong BLDS 2005, vấn đề TNBTTH được quy định tại Điều 307. BLDS không định nghĩa thế nào là BTTH mà chỉ quy định về trách nhiệm thiệt hại mang tính chất liệt kê, bao gồm hai loại trách nhiệm khác nhau: TNBTTH về vật chất và TNBTTH về tinh thần. Tuy nhiên, trong quan hệ hợp đồng, với tính chất đền bù ngang giá, người ta chỉ chấp nhận bồi thường các thiệt hại về vật chất, còn các thiệt hại về tinh thần không được chấp nhận bồi thường.
Theo quy định tại Điều 402 BLDS 2005, thì các bên có thể thỏa thuận trách nhiệm do vi phạm hợp đồng với tư cách là một trong các nội dung của hợp đồng. Các bên có thể thỏa thuận trước về việc bồi thường thiệt hại cũng như xác định trước trong hợp đồng một mức bồi thường cụ thể bằng tiền. Tuy nhiên, khác với phạt vi phạm là chỉ được áp dụng nếu như các bên có thỏa thuận trước về phạt vi phạm, đối với BTTH, cho dù các bên có thỏa thuận về vấn đề BTTH do vi phạm hợp đồng hay không, thì khi xảy ra thiệt hại, bên gây thiệt hại vẫn phải bồi thường theo quy định của pháp luật. TNBTTH nhắm tới mục đích quan trọng nhất là bồi hoàn, bù đắp, khôi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại cho bên bị vi phạm. Có thể nói rằng, BTTH là chế tài quan trọng và cơ bản nhất nhằm bảo đảm lợi ích của các bên khi hợp đồng bị vi phạm, tạo ra khả năng đảm bảo lợi ích một cách tối đa cho mọi bên có liên quan trong quan hệ hợp đồng. Chính vì thế, chế tài này được áp dụng cho hầu hết các hành vi vi phạm hợp đồng.
Theo khoản 2 Điều 307 của BLDS 2005, những thiệt hại được xác định trong trường hợp phải bồi thường bao gồm những tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút. Tài sản có thể là tài sản hiện hữu cũng có thể là tài sản sẽ có trong tương lai.
Khi tính toán các khoản thiệt hại về tài sản phải bồi thường, cần lưu ý rằng pháp luật quy định bên vi phạm chỉ phải bồi thường đối với những tổn thất thực tế, tính được thành tiền, còn các thiệt hại khác về tinh thần, danh dự, uy tín do việc vi phạm hợp đồng gây ra sẽ không được BTTH. Thiệt hại được bồi thường là toàn bộ những tổn thất thực tế phát sinh. Do đó, thiệt hại thực tế là bao nhiêu thì bên vi phạm phải bồi thường bấy nhiêu.Ta có thể tính dựa trên công thức sau:
Mức BTTH = tổn thất về tài sản + chi phí hợp lý (để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại) + thu nhập thực tế bị mất (bị giảm sút)
4. Hủy hợp đồng
Theo Điều 419 và 420 Bộ luật dân sự Việt Nam, “một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”; “một bên có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện đình chỉ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Vậy, theo Bộ luật dân sự, khi hợp đồng không được thực hiện, bên không được thực hiện có quyền hủy bỏ, đình chỉ hợp đồng nếu điều đó đã được thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Trong thực tế rất nhiều hợp đồng không có điều khoản cho phép một bên hủy bỏ hay đình chỉ hợp đồng khi bên kia có vi phạm
Theo Điều 428 về hợp đồng mua bán tài sản, “trong trường hợp bên bán giao ít hơn số lượng đã thỏa thuận, thì bên mua có một trong các quyền sau đây: Hủy bỏ hợp đồng”.
II. Các chế tài áp dụng cho việc vi phạm hợp đồng trong hoạt động mua bán hàng hóa theo LTM Việt Nam
1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Điều 223, Khoản 1 LTM quy định: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh”. Như vậy, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng buộc bên vị phải thực hiện đúng hợp đồng cho dù để thực hiện được, bên vi phạm phải áp dụng biện pháp nào hay phải chịu phí tổn như thế nào.
Theo Điều 223, Khoản 2, chế tài này được áp dụng trong các trường hợp: giao hàng thiếu; giao hàng kém chất lượng, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng. Trong trường hợp giao hàng thiếu, chế tài này quy định rằng bên vi phạm phải giao đủ hàng theo đúng như đã thỏa thuận trong hợp đồng, tức là phải giao đúng về số lượng, chất lượng, chủng loại, xuất xứ, mẫu mã... Đối với việc giao hàng kém chất lượng, cung cấp dịch vụ không đúng hợp đồng, bên vi phạm phải tìm cách loại trừ các khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ. Trong trường hợp này, LTM còn quy định thêm rằng bên vi phạm có thể có thể giao hàng khác để thay thế hàng kém chất lượng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng, tuy nhiên “không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại, dịch vụ khác để thay thế, nếu không được sự chấp thuận của bên có quyền lợi bị vi phạm.”
Trên thực tế, khi một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, để bảo vệ quyền lợi cho mình, bên bị vi phạm không phải lúc nào cũng cứng nhắc đòi bên kia thực hiện đúng nghĩa vụ như giao hàng thêm (nếu giao hàng thiếu), hay tìm biện pháp khắc phục khuyết tật của hàng hóa hoặc thay thế bằng hàng hóa khác (nếu giao hàng kém chất lượng), nhất là trong trường hợp bên vi phạm gặp nhiều khó khăn và chi phí để làm được như vậy và thậm chí bên bị vi phạm cũng có thể bị thiệt hại hơn. Trong trường hợp này, tức là khi bên vi phạm không thực hiện theo các quy định nói trên, tại Điều 223, Khoản 3 và 4 của LTM cũng thể hiện sự linh hoạt khi quy định cụ thể rằng: Bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền mua hàng hay nhận cung ứng dich vụ của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp đồng. Khi đó, bên vi phạm phải bù chênh lệch nếu có.
Nếu bên có quyền lợi bị vi phạm tự sửa chữa khuyết tật, thiếu sót của hàng hóa, dịch vụ thì bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý. Theo quy định này, bên vi phạm phải trả “các chi phí thực tế hợp lý”. Nói cách khác, nếu bên bị vi phạm viện cớ sửa chữa khuyết tật của hàng hóa để đòi bên kia các chi phí không liên quan đến việc sửa chữa khuyết tật đó hoặc đòi các chi phí vô lý quá cao so với thực tế thì bên vi phạm sẽ không phải trả các chi phí đó.
Như vậy, buộc thực hiện đúng hợp đồng là chế tài nhẹ nhất trong các chế tài và là tiền đề để thực hiện các chế tài khác.
2. Phạt vi phạm
Đây là một chế tài rất hay được sử dụng trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng kinh tế. Theo Điều 226, LTM: “Phạt vi phạm là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng, nếu trong hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.” Từ định nghĩa trên có thể thấy, phạt vi phạm chỉ được áp dụng khi trong hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định sẽ áp dụng loại chế tài này cho những vi phạm nhất định và không phụ thuộc vào bên bị vi phạm có thiệt hại hay không.
Để có thể đòi được tiền phạt, các bên phải dựa trên căn cứ sau: một bên đã không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đúng hợp đồng (Điều 227, LTM). Không thực hiện hợp đồng có thể là không giao hàng, không nhận hàng, không thanh toán tiền hàng... Còn thực hiện không đúng hợp đồng có thể là chậm giao hàng, giao hàng thiếu, giao hàng sai quy cách chủng loại, giao hàng kém phẩm chất...Ở đây, LTM không quy định rằng, khi áp dụng chế tài phạt vi phạm, bên có quyền lợi bị vi phạm phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại và mức độ thiệt hại. Nếu bên bị vi phạm chứng minh được là bên kia vi phạm và vi phạm đó thuộc diện áp dụng chế tài phạt vi phạm theo hợp đồng hoặc do pháp luật quy định thì hoàn toàn có thể yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt.
Về mức phạt vi phạm, Điều 228, LTM Việt Nam quy định: “Mức phạt đối với một vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá tám phần trăm giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm.” Như vậy, LTM cho phép các bên trả bằng một số tiền cụ thể hoặc theo tỷ lệ phần trăm đối với việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nhưng lại không quá tám phần trăm giá trị của phần hợp đồng bị vi phạm. Điều khoản này cho thấy LTM Việt Nam coi chế tài phạt vi phạm như một biện pháp trừng trị về mặt vật chất đối với bên vi phạm, nhưng chỉ giới hạn ở mức tối đa tám phần trăm giá trị phần hợp đồng vi phạm là nhằm tránh các bên sẽ lạm dụng điều khoản này.
3. Bồi thường thiệt hại.
Đây là một loại chế tài được áp dụng rất phổ biến khi có vi phạm hợp đồng mua bán gây thiệt hại cho bên vi phạm. Theo Điều 229, Khoản 1 LTM: “Bồi thường thiệt hại là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra.” Theo Điều 230 của LTM, để có thể áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại cần phải có đủ các yếu tố sau: Có hành vi vi phạm hợp đồng; Có thiệt hại vật chất; Có mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại vật chất; Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố nói trên thì không thể đòi bên vi phạm bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, đối với yếu tố “lỗi của bên vi phạm”, lỗi được xác định theo nguyên tắc suy đoán lỗi. Tức là cứ có vi phạm hợp đồng thì có thể suy đoán bên vi phạm hợp đồng. Muốn thoát trách nhiệm, bên vi phạm phải chứng minh được là mình không có lỗi (Điều 231).
Điều 229, Khoản 1, LTM Việt Nam quy định: “Số tiền bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm hợp đồng gây ra. Số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng.” Theo đó, số tiền bồi thường thiệt hại sẽ bao gồm hai khoản: Thứ nhất là bên vi phạm phải bồi thường “giá trị tổn thất thực tế trực tiếp. Thứ hai, bên vi phạm phải bồi thường “khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm hợp đồng