Đề tài Phân tích các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tăng trưởng công nghiệp bằng mô hình kinh tế lượng

Công nghiệp là ngành sản xuất ra khối lượng của cải vất chất rất lớn cho xã hội, có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Quốc Dân. Công nghiệp không những cung cấp hầu hết các công cụ, tư liệu sản xuất xây dựng cơ sở vật chất cho tất cả các ngành kinh tế mà còn tạo ra các sản phẩm tiêu dùng có giá trị góp phần phát triển nền Kinh tế và nâng cao trình độ văn minh của Xã hội. Vì vậy tăng trưởng công nghiệp có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác như: Nông nghiệp, Thương mại, Giao thông vận tải, Dịch vụ, Quốc phòng Do công nghiệp có vai trò quan trọng như vậy nên khi đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia tiêu chuẩn đầu tiên phải đề cập đến là tỷ trọng của ngành công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngày nay, một nước muốn có trình độ kinh tế cao, nhất thiết phải có một hệ thống các ngành công nghiệp hiện đại và đa dạng trong đó các nghành mũi nhọn phải được chú ý thích đáng. Do vậy chỉ có tăng trưởng công nghiệp mới giúp các quốc gia đang phát triển xây dựng nền công nghiệp bền vững và xoá bớt khoảng cách với các nước phát triển kể cả về mặt Kinh tế lẫn văn minh Xã hội. Nhận thức rõ điều này Đảng và Nhà Nước ta từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986) đã có chủ trương đổi mới nền công nghiệp từ tập trung phát triển công nghiệp nặng sang phát triển đồng bộ các ngành công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến và hàng tiêu dùng. Chính từ chủ trương đổi mới đó sau gần 20 năm Công nghiệp Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể, tăng trưởng công nghiệp này càng cao và ổn định, các sản phẩm công nghiệp đáp ứng được nhu cầu trong nước và còn xuất khẩu cạnh tranh với các sản phẩm của nước ngoài. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công nghiệp Việt Nam còn một số điểm kém phát triển như lao động trong ngành công nghiệp có trình độ chưa cao, sản phẩm công nghiệp có sức cạnh tranh chưa cao Với những thành tựu cũng như thực trạng này chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp để nước ta trở thành một nước công nghiệp trong thời gian sắp tới.

doc21 trang | Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 1907 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tăng trưởng công nghiệp bằng mô hình kinh tế lượng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Công nghiệp là ngành sản xuất ra khối lượng của cải vất chất rất lớn cho xã hội, có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Quốc Dân. Công nghiệp không những cung cấp hầu hết các công cụ, tư liệu sản xuất xây dựng cơ sở vật chất cho tất cả các ngành kinh tế mà còn tạo ra các sản phẩm tiêu dùng có giá trị góp phần phát triển nền Kinh tế và nâng cao trình độ văn minh của Xã hội. Vì vậy tăng trưởng công nghiệp có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác như: Nông nghiệp, Thương mại, Giao thông vận tải, Dịch vụ, Quốc phòngDo công nghiệp có vai trò quan trọng như vậy nên khi đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia tiêu chuẩn đầu tiên phải đề cập đến là tỷ trọng của ngành công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngày nay, một nước muốn có trình độ kinh tế cao, nhất thiết phải có một hệ thống các ngành công nghiệp hiện đại và đa dạng trong đó các nghành mũi nhọn phải được chú ý thích đáng. Do vậy chỉ có tăng trưởng công nghiệp mới giúp các quốc gia đang phát triển xây dựng nền công nghiệp bền vững và xoá bớt khoảng cách với các nước phát triển kể cả về mặt Kinh tế lẫn văn minh Xã hội. Nhận thức rõ điều này Đảng và Nhà Nước ta từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986) đã có chủ trương đổi mới nền công nghiệp từ tập trung phát triển công nghiệp nặng sang phát triển đồng bộ các ngành công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến và hàng tiêu dùng. Chính từ chủ trương đổi mới đó sau gần 20 năm Công nghiệp Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể, tăng trưởng công nghiệp này càng cao và ổn định, các sản phẩm công nghiệp đáp ứng được nhu cầu trong nước và còn xuất khẩu cạnh tranh với các sản phẩm của nước ngoài. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công nghiệp Việt Nam còn một số điểm kém phát triển như lao động trong ngành công nghiệp có trình độ chưa cao, sản phẩm công nghiệp có sức cạnh tranh chưa caoVới những thành tựu cũng như thực trạng này chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp để nước ta trở thành một nước công nghiệp trong thời gian sắp tới. Để có được sự tăng trưởng trong công nghiệp như vậy thì cần phải xét tới những yếu tố đã tác động tới sự phát triển đó. Bằng việc sử dụng mô hình trong kinh tế lượng phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới tăng trưởng công nghiệp là việc xem xét mối quan hệ giữa các biến số và nắm được nhân tố nào quan trọng nhất trong các nhân tố có ảnh hưởng tới biến phụ thuộc trong mô hình. Phân tích số liệu, tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề trên sẽ có ý nghĩa trong việc phân tích đánh giá đầy đủ hơn về tăng trưởng công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua. Từ đó xây dựng mô hình tăng trưởng phù hợp với điều kiện hiện nay của đất nước. Do những yếu tố nêu trên, nhóm đã chọn đề tài “ Phân tích các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tăng trưởng công nghiệp bằng mô hình kinh tế lượng.” CHƯƠNG I THỰC TRẠNG VỀ NỀN CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 1.Khái niệm và phân loại ngành công nghiệp của Việt Nam hiện nay: 1.1. Khái niệm ngành công nghiệp: Ngành công nghiệp bao gồm các hoạt động kinh tế khai thác tài nguyên khoáng sản sẵn có trong thiên nhiên chưa có tác động của bàn tay con người (trừ tài nguyên rừng và thuỷ hải sản) và các hoạt động chế biến những sản phẩm của ngành Nông lâm nghiệp, Thuỷ sản và Công nghiệp thành các sản phẩm có giá trị sử dụng mới so với giá trị sửa dụng của sản phẩm ban đầu đưa vào chế biến. 1.2. Phân loại ngành công nghiệp Việt Nam hiện nay: (1) Công nghiệp khai thác mỏ gồm: - Khai thác than. - Khai thác dầu thô và khí tự nhiên. - Khai thác quặng, kim loại. - Khai thác đá, cát sỏi và các mỏ khác. (2) Công nghiệp chế biến gồm: - Sản xuất thực phẩm đồ uống. - Sản xuất thuốc lá, thuốc lào. - Dệt, may, thuộc da và sản xuất các sản phẩm từ da. - Chế biến gỗ và lâm sản. - Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy. - Xuất bản, in và sao bản ghi các loại. - Sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế và nhiên liệu hạt nhân. - Sản xuất hoá chất và các sản phẩm hoá chất. - Sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic. - Sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại. - Sản xuất kim loại. - Sản xuất các sản phẩm từ kim loại (trừ máy móc, thiết bị). - Sản xuất máy móc, thiết bị văn phòng, máy tính. - Sản xuất radio, ti vi và thiết bị truyền thông. - Sản xuất dụng cụ y tế, thiết bị chính xác (cân đo). - Sản xuất xe có động cơ. - Sản xuất các loại phương tiện khác. - Sản xuất giường tủ, bàn ghế và các sản phẩm khác chưa được phân vào đâu. - Tái chế phế liệu, phế phẩm. (3) Sản xuất tập trung và phân phối điện, ga, nước sạch và nước nóng gồm: - Sản xuất, tập trung và phân phối điện, ga. - Sản xuất và phân phối nước sạch, nước nóng. 2. Thực trạng nền công nghiệp Việt Nam: Nền công nghiệp Việt Nam hình thành khá muộn so với nền công nghiệp Thế Giới, mãi đến năm 1945 khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời thì nó mới thực sự trở thành ngành độc lập. Xuất phát điểm công nghiệp thấp không chỉ về mặt kỹ thuật, công nghệ mà còn cả về khả năng ứng dụng và môi trương kinh tế để có thể phát triển. Thêm vào đó là những chủ trương, chính sách sai lầm sau ngày giải phóng. Tất cả những điều kiện trên đã tạo thành bức rào cản kiên cố ngăn không cho kinh tế Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp Việt Nam nói riêng phát triển như các nước trong khu vực, hoà cùng nhịp đi lên của thế giới. Việt Nam trong điều kiện ấy thứcự đã bị tụt hậu quá xa nhưng lại chỉ chậm chạp, năng nề lê từng bước để đuổi theo sự phát triển với tốc độ chóng mặt của nền kinh tế Thế Giới. Ngay từ những năm đầu tiên của nền kinh tế non trẻ nước ta, công nghiệp đóng góp một phần rất lớn trong các chỉ tiêu kinh tế. Đến năm 1986, tỷ trọng công nghiệp trên giá trị tổng sản lượng công-nông nghiệp là 53,5%, chiếm 42,8% trong tổng sản phẩm xã hội, 28,6% thu nhập quốc dân, vốn đầu tư cho công nghiệp chiếm 43,9% vốn đầu tư phát triển. Các tỷ lệ này được tăng dần trong các năm 1987,1988 nhưng đến năm1989 cùng với sự giảm sụt về giá trị sản lượng công nghiệp, tỷ trọng công nghiệp trong các chỉ tiêu kinh tế đều giảm xuống còn mức gần bằng năm 1986. Do tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu sản xuất công nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, chất lượng sản phẩm có nhiều tiến bộ nên vai trò của công nghiệp trong dịch chuyển cơ cấu kinh tế quốc dân trong 4 năm đầu thế kỷ XXI đã thể hiện khá rõ nét. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ 36,73% năm 2000 lên 38,13% năm 2001; 38,49% năm 2002; 39,95% năm 2003; 40,09% năm 2004 và 41,02% năm 2005. Nhìn chung, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển đầu tư vào công nghiệp thường cao hơn tỷ trọng công nghiệp trong GDP. Điều này cũng dễ hiểu vì công nghiệp luôn đòi hỏi phải đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng: nhà xưởng, máy móc, thiết bị ... Nếu tỷ trọng trung bình của công nghiệp trong GDP giai đoạn 1990-1995 là 21,36%; 1996-2000 là 27,17% thì vốn đầu tư phát triển cho công nghiệp chiếm 42,92% trong nửa đầu thập niên 90 và giảm xuống 32,72% trong nửa cuối. So với công nghiệp khai thác, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước, khí đốt thì tỷ trọng của công nghiệp chế biến trong GDP, vốn đầu tư phát triển đều cao hơn cả. Như năm 2000 GDP ngành công nghiệp chế biến chiếm 18,6% GDP, đến năm 2003 chiếm tới 20,45% GDP của toàn bộ nền kinh tế. Năm 1995, vốn đầu tư phát triển dành cho công nghiệp 31,2% thì có 17% là cho công nghiệp chế biến, 9,2% công nghiệp điện, nước, khí đốt và chie có 5% cho công nghiệp khai thác. Đến năm 2000, với tỷ lệ đầu tư cho công nghiệp là 33,8% vốn đầu tư phát triển thì tỷ lệ đầu tư cho công nghiệp chế biến đạt 20,1%, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước, khí đốt là 11,7%, công nghiệp khai thác mỏ chỉ chiếm 2,6%. Đây cũng là xu hướng chung về tăng vốn đầu tư cho công nghiệp chế biến và giảm dần cho công nghiệp khai thác mỏ giai đoạn 2000-2003. Vẫn biết rằng các ngành như điện, khai khoáng là những ngành đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiến hành CNH, HĐH nên cần tập trung đầu tư nhưng bản thân các ngành phải cố gắng nhiều hơn nữa để nâng cao hiệu suất sử dụng vốn và chính phủ cần có những biện pháp để sớm khắc phục tình trạng sử dụng vốn bừa bãi thì mới có thể đẩy nhanh quá trình CNH đất nước. Trong những năm qua do mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật với các nước trên thế giới, trong đó có những nước công nghiệp phát triển và công nghiệp mới (NIC) chúng ta đã đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu theo chiều sâu theo công nghệ. Trước đây trình độ công nghệ, trang thiết bị trong ngành công nghiệp hết sức lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Quá trình đổi mới với sự nỗ lực tập trung đầu tư, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất mà trực tiếp đổi mới máy móc thiết bị kỹ thuật phù hợp đã tạo một bước tiến mới, nâng cao trình độ công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp, tạo năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm được cải tiến là cơ sở để mở rộng thị trường hàng hóa công nghiệp Việt Nam cả trong nước và nước ngoài. Ở một số ngành công nghiệp đã có sự chuyển biến theo hướng tiếp cận công nghiệp tiên tiến, hiện đại, hình thành một cơ cấu công nghiệp đa dạng về xuất xứ và trình độ, đan xen trong từng doanh nghiệp, từng ngành sản xuất công nghiệp. Thấy được tầm quan trọng của công nghệ hiện đại nên những năm vừa qua vốn đầu tư cho ngành công nghiệp ngày càng tăng để các ngành công nghiệp nhanh chóng tiếp cận với công nghệ hiện đại trên thế giới. Vốn đầu tư trong năm 1986 mới chỉ là 15 tỷ đồng thì cho đến năm 1990 vốn đầu tư đã là 1995,6 tỷ đồng tăng gấp hơn 100 lần so với năm 1986; tới năm 1995 là 22673,3 tỷ đồng; năm 2000 là 49892,9 tỷ đồng; năm 2005 là 64390,9 tỷ đồng. Tuy nhiên không phải năm nào vốn đầu tư cũng tăng vì đầu tư có độ trễ về mặt thời gian để tạo ra được kết quả nên có khi năm trước đầu tư nhiều thì năm sau có thể giảm lượng vốn đầu tư đi như năm 1995 lượng vốn đầu tư giảm 2,96% so với năm 1994. *Đầu tư cho ngành công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức Tỷ trọng đầu tư cho ngành công nghiệp mặc dù chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội song số vốn đó chưa đủ để cơ cấu lại toàn bộ nền công nghiệp. Cơ cấu đầu tư của các doanh nghiệp cũng như tỷ trọng vốn tham gia của các thành phần kinh tế chưa thực sự hướng tới một nền kinh tế thị trường hoà hợp và cạnh tranh quyết liệt. Nhiều ngành, lĩnh vực công nghiệp có vai trò và tác động lớn như chế tạo máy móc thiết bị, công nghiệp nguyên liệu chưa được quan tâm đúng mức. trong khi đó vốn đầu tư vào các ngành xi măng, mía đường không mang lại hiệu quả. Đầu tư vẫn còn thiếu tập trung, dàn trải mới thấy lợi trước mắt là đầu tư mà chưa thấy được triển vọng phát triển lâu dài. * Sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Việt Nam còn thấp Ngoài những nguyên nhân về chi phí cao dẫn đến giá thành cao, công nghệ lạc hậu khiến sản phẩm kém chấ lượng thì còn một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như: doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam chưa chú ý nhiều đến khâu bao bì đóng gói, mẫu mã sản phẩm còn chưa phong phú. Vì thế các sản phẩm công nghiệp Việt Nam còn không thể tồn tại ngay ở thị trường trong nước chứ chưa nói đến những đòi hỏi khắt khe của thị trường nước ngoài. Một nguyên nhân hết sức quan trọng nữa là vấn đề thương hiệu của sản phẩm. Nhiều tên các sản phẩm nổi tiếng của công nghiệp Việt Nam đã bị các công ty nước ngoài chiếm dụng để kinh doanh mà không sao do các doanh nghiệp Việt Nam chưa dăng ký thương hiệu các sản phẩm của mình. CHƯƠNG II PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN ĐẾN TĂNG TRƯỞNG CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM Với chương này bằng việc áp dụng các mô hình kinh tế lượng vào để phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Như vậy xuất phát từ thực trạng trong ngành công nghiệp nhómsẽ xây dựng một mô hình phù hợp nhất với những biến số là những nhân tố cơ bản có thể tác động tới quá trình tăng trưởng của ngành công nghiệp. Sau khi xây dựng được mô hình phù hợp nhómsẽ áp dụng kết quả ước lượng của mô hình để dự báo giá trị của ngành công nghiệp trong một vài năm tới, cuối cùng là một số kiến nghị và giải pháp cho ngành công nghiệp Việt Nam. 1. Lựa chọn mô hình Đầu tiên khi lựa chọn mô hình là phải xác định các biến số đâu là biến phụ thuộc đâu là biến độc lập. Vì vậy nhómxin giới thiệu các biến và cách thức được sử dụng trong mô hình. 1.1. Biến phụ thuộc ( biến được giải thích) trong mô hình:Là tổng sản phẩm của ngành công nghiệp hàng năm ;Ký hiệu : GOCN 1.2. Biến độc lập ( biến giải thích) trong mô hình: * Vốn đầu tư sản xuất cho ngành công nghiệp (ICN) Là lượng vốn đầu tư vào sản xuất công nghiệp bao gồm cả vốn của khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư là yếu tố hết sức quan trọng đối với tăng trưởng của công nghiệp, để biết được vốn đầu tư có được sử dụng hiệu quả hay không ta xem xét tới việc khi đầu tư thêm một đồng vốn thì yạo ra thêm được bao nhiêu giá trị sản phẩm. * Số lao động trong ngành công nghiệp (LCN) Là tổng số lao động cả lao động trí óc và lao động tay chân có tham gia sản xuất trong ngành công nghiệp. Bất kỳ quốc gia nào đều cần đến lao động, lao động là nguồn lực quý nhất, nguồn lực quyết định trong số các nguồn lực tác động tới phát triển. Do nước ta vẫn là nước công nghiệp còn lạc hậu, nhiều ngành công nghiệp còn cần sử dụng 100% là lao động thủ công thì lao động lại càng là nhân tố quyết định quan trọng đến tăng trưởng công nghiệp. * Giá trị xuất khẩu của các sản phẩm công nghiệp (ECN) Là toàn bộ giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghiệp thô hay tinh chế hàng năm. Giá trị xuất khẩu hàng năm của ngành công nghiệp có đóng góp lớn vào tổng sản phẩm quốc dân từ đó thúc đẩy tới tăng trưởng của ngành công nghiệp riêng cũng như toàn bộ nền kinh tế nói chung. Đồng thời chính sách mở cửa kinh tế, hội nhập quốc tế và việc cải cách chính sách ngoại thương đã làm tăng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hang công nghiệp trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. * Biến giả (Di ): Biến giả phản ánh một thời kỳ đặc biệt trong cả giai đoạn phát triển. Như chúng ta đã biết thời kỳ từ năm 1986 tới năm 1990 là thời kỳ công nghiệp Việt Nam có sự thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu cũng như các chính sách phát triển các ngành công nghiệp. Do dó mục đích khi cho biến giả này của nhóm là xem xét việc thay đổi chính sách có ảnh hưởng đến giá trị sản phẩm công nghiệp hay không. D1 = 1 nếu năm quan sát thuộc thời kỳ 1986-1990 0 nếu năm quan sát thuộc thời kỳ sau năm 1990. 2. Xây dựng mô hình: Xuất phát từ mô hình hàm sản xuất Cobb-Douglas và qua thực nghiệm nhómđưa ra mô hình cho sự tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam như sau: Log(GOCN) = a0 + a1*D1 + a2*log(ICN) + a3*log(LCN) + a4*log(ECN). Trong đó : -GOCN:là biến phụ thuộc -ICN,LCN,ECN: là biến độc lập -D1 :là biến giả - ai ( i=1,4) :là hệ số của các biến tương ứng -a0 :là hệ số chặn. 2.1. Ước lượng mô hình: Bằng việc sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS để ước lượng mô hình trên và ước lượng là chính xác nhất thì kết quả ước lượng mô hình phải thoã mãn các giả thiết của OLS. Giả thiết: 1. Biến giải thích là phi ngẫu nhiên, tức là các giá trị của chúng là các số đã được xác định 2. Kỳ vọng của yếu tố ngẫu nhiên U bằng không. E(Ui) = E(U/Xi) = 0 " i 3. Phương sai của yếu tố ngẫu nhiên U bằng nhau. Var(U/Xi) = Var(U/Xj) = s2 " i ¹ j 4. Không có sự tương quan giữa các Ui. Cov(Ui,Uj) = 0 " i ¹ j 5. U và X không tương quan với nhau. Cov(U,X) = 0 Với sự trợ giúp của phần mềm EVIEWS ta có kết quả ước lượng mô hình trên như sau: Sửdụng phương pháp OLS Dependent Variable: LOG(GOCN) Method: Least Squares Date: 04/11/06 Time: 10:12 Sample(adjusted): 1990 2005 Included observations: 16 after adjusting endpoints Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. LOG(ICN) 0.353745 0.236690 1.494549 0.1632 LOG(ECN) 0.192586 0.229053 0.840792 0.4184 LOG(LCN) 1.287993 0.207728 6.200376 0.0001 D1 -0.575438 0.259132 -2.220635 0.0483 C -12.96460 2.278105 -5.690958 0.0001 R-squared 0.995789 Mean dependent var 12.14647 Adjusted R-squared 0.994258 S.D. dependent var 1.052901 S.E. of regression 0.079782 Akaike info criterion -1.968726 Sum squaredresid 0.070017 Schwarz criterion -1.727292 Log likelihood 20.74981 F-statistic 650.3724 Durbin-Watson stat 2.139067 Prob(F-statistic) 0.000000 Nhìn vào bảng trên ta thấy kết quả ước lượng mô hình ban đầu chưa phải là mô hình tốt nhất. Trong thời kỳ 1986-2005 các biến vốn đầu tư sản xuất công nghiệp, biến giá trị xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp đưa vào mô hình đều không có ý nghĩa vì các giá trị P-value ứng với các biến này đều lớn hơn 0,05. Điều này là không phù hợp với thực tế vì trong thực tế có thể xuất khẩu không tác động tới tăng trưởng công nghiệp nhưng vốn đầu tư có vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng công nghiệp, biến vốn đầu tư là yếu tố không thể thiếu trong một hàm sản xuất. Ta có thể kiểm tra tính đúng đắn của mô hình bằng việc ước lượng lại mô hình phương pháp 2STS: Dependent Variable: LOG(GOCN) Method: Two-Stage Least Squares Date: 05/04/06 Time: 13:47 Sample(adjusted): 1990 2005 Included observations: 16 after adjusting endpoints LOG(GOCN)= C(5) + C(1)*LOG(ICN) +C(2)*LOG(LCN) + C(3) *LOG(ECN) + C(4)*D1 Instrument list: LOG(ICN) LOG(LCN) LOG(ECN) D1 Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C(5) -12.96460 2.278105 -5.690958 0.0001 C(1) 0.353745 0.236690 1.494549 0.1632 C(2) 1.287993 0.207728 6.200376 0.0001 C(3) 0.192586 0.229053 0.840792 0.4184 C(4) -0.575438 0.259132 -2.220635 0.0483 R-squared 0.995789 Mean dependent var 12.14647 Adjusted R-squared 0.994258 S.D. dependent var 1.052901 S.E. of regression 0.079782 Sum squared resid 0.070017 Durbin-Watson stat 2.139067 Kết quả ước lượng bằng phương pháp 2STS cũng cho ta các hệ số ước lượng ứng với các biến độc lập tương ứng giống như ước lượng bằng phương pháp OLS. Như vậy mô hình tương quan giữa biến giá trị sản xuất công nghiệp với các biến độc lập: vốn đầu tư sản xuất, số lao động, giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghiệp, biến giả vẫn còn nhiều khuyết điểm cần được cải tiến. 2.2. Cải tiến mô hình Mô hình tốt là mô hình có những tiêu chuẩn sau: a.Tính kiệm: Một mô hình khồng bao giờ có thể thâu tóm được toàn bộ thực tại, việc trừu tượng hóa và đơn giản hóa là cần thiết bởi vì mô hình là sự biểu diễn đơn giản nhưng hoàn chỉnh của hiện thực. Nguyên tắc kiệm cho rằng hãy giữ cho mô hình càng đơn giản càng tốt. a.1.Tính đồng nhất: Với một tập hợp số liệu đã cho, các tham số ước lượng phải có giá trị thống nhất. a.2.Tính thích hợp: Vì mục đích của phân tích hồi quy là giải thích sự biến động của biến phụ thuộc bằng biến giải thích của mô hình càng nhiều càng tốt, nên một mô hình được coi là mô hình thích hợp nếu có R2 hoặc R2 điều chỉnh cao. a.2.1.Tính vững về mặt lý thuyết: Tuy nhiên tính thích hợp không còn tác dụng nếu như mô hình có một hay một số hệ số có dấu sai. a.2.2.Khả năng dự đoán: Tiêu chuẩn thực tiễn của mô hình thể hiện ở sức dự đoán của mô hình phù hợp với thực tế. Với các tiêu chuẩn trên mô hình xuất phát còn một số khuyết điểm nên chưa phải là mô hình tốt nhất nên ta cần phải cải tiến mô hình để có được mô hình tốt có thể áp dụng trong thực tế. Như chúng ta đã biết trong nhiều mô hình biến phụ thuộc không những chịu tác động bởi các biến độc lập mà nó còn do chính các biến đó ở các thời kỳ trước tác động tới. Chính vì vậy ta cho thêm biến GOCN trễ một thời kỳ vào mô hình ban đầu và ước lượng lại mô hình. Tuy nhiên nhìn vào bảng kết quả ước lượng các mô hình cải tiến ta thấy mô hình sau này(pt1) cũng cho kết quả tương tự như mô hình ban đầu. Biến GOCN trễ một thời kỳ có ý nghĩa trong mô hình nhưng vẫn không làm cho 2 biến ICN và ECN có ý nghĩa. Do đó việc cải tiến mô hình bằng cách thêm biến này không làm cho mô hình tốt hơn, một cách cải tiến khác là có thể biến giá trị xuất khẩu công nghiệp thực sự không có ảnh hưởng tới tăng trưởng. Từ đó ta có thể cải tiến mô hình bằng cách bỏ biến giá trị xuất khẩu của các sản phẩm công nghiệp (ECN) rồi ước lượng lại mô
Luận văn liên quan