Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và nhà nước Việt Nam. Chủ trương này được khẳng định trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và trong nghị quyết 01NQ/TW của Bộ chính trị với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa hướng về xuất khẩu. Để thực hiện chủ trương của Đảng cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và giúp Việt Nam bắt kịp với tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập, chúng ta cần phải tăng cường mở rộng xuất khẩu. Việt Nam hiện là một nước nông nghiệp đã xuất khẩu nhiều mặt hàng có giá trị cao như gạo, hồ tiêu, hạt điều và một trong những mặt hàng đó thì không thể không kể đến mặt hàng cà phê. Cà phê cũng chiếm một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, sản lượng cà phê của Việt Nam đang đứng thứ 2 trên thế giới chỉ sau Brazil, do đó từ lâu xuất khẩu cà phê là một lợi thế của Việt Nam, hàng năm lượng ngoại tệ thu được từ việc xuất khẩu cà phê của Việt Nam chiếm một lượng thật đáng kể cho việc đóng góp vào ngân sách quốc gia. Tuy nhiên, trong những năm gần đây khi Việt Nam gia nhập vào nhiều tổ chức thế giới thì nền kinh tế nước ta không phải là nền kinh tế đóng như lúc trước mà phải chịu sự biến động chung của nền kinh tế thế giới. Vì thế, nền kinh tế nước ta gặp không ít những khó khăn, một số thế mạnh của ta vẫn chưa triệt để. Trong tình hình đó, nghiên cứu marketing để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động xuất khẩu cà phê là một đòi hỏi cấp thiết và đáng quan tâm nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
24 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2837 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích chiến lược marketing trong việc xuất khẩu ngành cà phê Việt Nam từ năm 2007 – tháng 6/2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.PHẦN MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và nhà nước Việt Nam. Chủ trương này được khẳng định trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và trong nghị quyết 01NQ/TW của Bộ chính trị với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa hướng về xuất khẩu. Để thực hiện chủ trương của Đảng cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và giúp Việt Nam bắt kịp với tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập, chúng ta cần phải tăng cường mở rộng xuất khẩu. Việt Nam hiện là một nước nông nghiệp đã xuất khẩu nhiều mặt hàng có giá trị cao như gạo, hồ tiêu, hạt điều… và một trong những mặt hàng đó thì không thể không kể đến mặt hàng cà phê. Cà phê cũng chiếm một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, sản lượng cà phê của Việt Nam đang đứng thứ 2 trên thế giới chỉ sau Brazil, do đó từ lâu xuất khẩu cà phê là một lợi thế của Việt Nam, hàng năm lượng ngoại tệ thu được từ việc xuất khẩu cà phê của Việt Nam chiếm một lượng thật đáng kể cho việc đóng góp vào ngân sách quốc gia. Tuy nhiên, trong những năm gần đây khi Việt Nam gia nhập vào nhiều tổ chức thế giới thì nền kinh tế nước ta không phải là nền kinh tế đóng như lúc trước mà phải chịu sự biến động chung của nền kinh tế thế giới. Vì thế, nền kinh tế nước ta gặp không ít những khó khăn, một số thế mạnh của ta vẫn chưa triệt để. Trong tình hình đó, nghiên cứu marketing để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động xuất khẩu cà phê là một đòi hỏi cấp thiết và đáng quan tâm nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Vì vậy, tôi quyết định nghiên cứu đề tài “phân tích chiến lược Marketing trong việc xuất khẩu ngành cà phê Việt Nam từ năm 2007 – tháng 6/2010” để hiểu rõ hơn về tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong những năm qua như thế nào nhằm làm tài liệu cho mình và cho cả những ai quan tâm. Do thời gian có giới hạn nên tôi chỉ nghiên cứu số liệu trong thời gian từ năm 2007- tháng 6 năm 2010.
II/ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chung: phân tích chiến lược Marketing trong việc xuất khẩu ngành cà phê Việt từ năm 2007- tháng 6/2010. Nhằm tìm hiểu về thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong thời gian qua như thế nào. Từ đó phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ theo ma trận SWOT và đề ra các chiến lược để khắc phục những mặt hạn chế sao cho việc xuất khẩu ngành cà phê được hoàn thiện hơn.
Mục tiêu cụ thể:
Khái quát về ngành cà phê Việt Nam và Marketing hỗn hợp (Marketing-Mix).
- Thực trạng sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam theo Marketing-Mix trong thời gian từ 2007-tháng 6/2010
Các biện pháp để việc xuất khẩu cà phê được hiệu quả hơn từ ma trận SWOT
III/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
3.1. phương pháp thu thập dữ liệu: đề tài sử dụng số liệu thứ cấp để phân tích. Số liệu này được lấy chủ yếu từ mạng Internet, sách báo và một số các báo cáo khác.
3.2. Phương pháp phân tích dữ liệu:
- Sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh để biết được thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong những năm qua có những chuyển biến như thế nào.
- Từ những phương pháp trên sử dụng phương pháp diễn giải, suy luận để đề ra các biện pháp trong việc xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tương lai đạt hiệu quả hơn.
IV/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Đối tượng nghiên cứu: ngành cà phê Việt Nam
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2007 – tháng 6/2010
- Không gian nghiên cứu: Việt Nam
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1- KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH CÀ PHÊ VIỆT NAM VÀ MARKETING-MIX
1.1. KHÁI QUÁT VỀ MARKETING-MIX:
1.1.1Thế nào là Marketing
Có nhiều định nghĩa khác nhau về Marketing. Nhưng bất kì định nghĩa nào cũng nhằm thực hiện công việc tìm kiếm, xác định nhu cầu, thị hiếu chưa được thỏa mãn. Sau đó tổ chức sản xuất, cung ứng thỏa mãn tối đa nhu cầu khách hàng. Sau đây là một số định nghĩa về Marketing
a) Định nghĩa của Philip Kotler: “Marketing là quá trình quản lý xã hội thông qua sự sáng tạo của cá nhân và tập thể thay đổi sự tiêu thụ. Là tự do giao dịch trao đổi sản phẩm và các giá trị khác, để từ đó biết được nhu cầu xã hội”.
b) Định nghĩa của Hiệp hội Marketing Mỹ: “Marketing là quá trình hoạch định và quản lý thực hiện việc định giá, chiêu thị và phân phối các ý tưởng, hàng hóa, dịch vụ, nhằm mục đích tạo ra các giao dịch để thỏa mãn những mục tiêu của cá nhân, của tổ chức và của xã hội”.
c) Định nghĩa theo quan niệm mới: “ Marketing là thiết lập, duy trì và củng cố các mối quan hệ với khách hàng và các đối tác có liên quan để làm thỏa mãn mục tiêu của các thành viên này”.
1.1.2. Thế nào là Marketing-Mix:
Marketing hỗn hợp là sự phối hợp các hoạt động, sự bố trí, sắp xếp các thành phần của Marketing một cách tối ưu nhất, sao cho phù hợp với điều kiện kinh doanh thực tế nhằm tăng cường, củng cố vị trí của công ty trên thương trường cả trong ngắn hạn và dài hạn.
1.1.3. Vai trò của Marketing-Mix trong kinh doanh
Nếu công ty biết cách phối hợp tốt các thành phần của Marketing sẽ mang lại lợi ích rất lớn cho doanh nghiệp
- Giúp hạn chế rủi ro trong kinh doanh
- Tạo điều kiện kinh doanh thuận lợ, có nhiều cơ hội phát triển
- Thu được lợi nhuận tối đa và ổn định
1.1.4. Các thành phần chính trong Marketing-Mix
Marketing hỗn hợp gồm 4 thành phần chủ đạo hay còn gọi là 4P gồm
- Product (P1): yếu tố này đặt câu hỏi sản xuất cái gì? Thế nào? Bao nhiêu? Từ đó đưa ra chiến lược sản phẩm định vị, xây dựng thương hiệu
- Price (P2): đưa ra khung giá? Giá bán bao nhiêu? Từ đó đưa ra chiến lược giá
- Place (P3): Bán ở đâu? Vào lúc nào? Ta đưa ra chiến lược phân phối
- Promotion (P4): Bán bằng cách nào? Từ đó ta sẽ đưa ra chiến lược chiêu thị sao cho sản phẩm ta được tiêu thụ mạnh.
1.2. SƠ LƯỢC VỀ NGÀNH CÀ PHÊ VIỆT NAM
Việt Nam nằm trong vùng vành đai nhiệt đới của Bắc bán cầu, nơi có khí hậu phù hợp cho sự phát triển cây cà phê, cà phê Việt Nam mang một hương vị rất đặc biệt. Đặc biệt là ở phía gần đường xích đạo nóng và ẩm ướt nhiệt đới khí hậu phù hợp cho cây cà phê Brobusta, thu gom ở khu vực Tây Nguyên trong đó Đắc Lắc chiếm trên 50% tổng sản lượng quốc gia, Phía Bắc với mùa đông lạnh phù hợp cho cây cà phê Arabica. Ngoài ra, cà phê ở Việt Nam còn được trồng ở Trung du Bắc Bộ, đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên Hải miền Trung và một số khu vực ở đồng bằng Sông Cửu Long.
Ở Việt Nam, sản phẩm cà phê đang là một ngành hàng nông sản quan trọng của nước ta, mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị kinh tế lớn. Trong những năm qua, xuất khẩu cà phê đã đưa về lượng ngoại tệ đáng kể cho nước nhà. Cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực đứng thứ hai thế giới sau gạo.
Hiện nay, cà phê chủ yếu của Việt Nam chủ yếu là cà phê vối với phương pháp chế biến chủ yếu là bằng phương pháp khô nên chất lượng và giá trị không cao. Ngành cà phê Việt Nam hiện nay có hiệp hội cà phê ca cao với tên viết tắt là Vicofa với 78 thành viên trong đó tổng công ty cà phê Việt Nam là lớn nhất và cũng như của ngành cà phê Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG 2- THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM THEO QUAN ĐIỂM MARKETING-MIX TRONG GIAI ĐOẠN 2007-THÁNG 6/2010
2.1. KIM NGẠCH VÀ SẢN LƯỢNG XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH CÀ PHÊ VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 - THÁNG 6/2010
2.1.1. Sản lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam trong thời gian qua
Năm
2007
2008
2009
6 tháng 2009
6 tháng 2010
Chênh lệch 2008/2007
Chênh lệch 2009/2008
Chênh lệch 6 tháng 2010/ 6 tháng 2009
Tỷ lệ (%)
Giá trị (1.000 tấn)
Tỷ lệ (%)
Giá trị (1.000 tấn)
Tỷ lệ (%)
Giá trị (1.000 tấn)
Sản lượng XK (1.000 tấn)
1.229
1.059
1.183
732
659
(13,8)
(170)
11,7
124
(9,9)
(73)
BẢNG 1: SẢN LƯỢNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM TỪ NĂM2007-THÁNG 6/2010
Nguồn: tổng hợp từ cục thống kê
Cà phê là một mặt hàng buôn bán có giá trị kim ngạch đứng thứ 2 thế giới đang phát triền sau dầu mỏ. Cà phê chủ yếu được trồng và xuất khẩu ở các nước đang phát triển thuộc vành đai nhiệt đới và á nhiệt đới như Việt Nam, phần lớn sản phẩm được nhập khẩu và tiêu thụ ở các nước công nghiệp phát triển với lượng nhập khẩu tương đối lớn. Nhìn chung sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong những năm qua có sự tăng giảm đáng kể. Do ảnh hưởng của tình hình khó khăn kinh tế nên tình hình tiêu thụ cà phê của thế giới có xu hướng giảm đáng kể, sản lượng xuất khẩu năm 2008 so với năm 2007 giảm 13,8% hay về lượng giảm 170 ngàn tấn , đến năm 2009 tình hình có triển vọng hơn vì sự khó khăn của nền kinh tế đang dần được phục hồi đạt 1.183 ngàn tấn, tăng 11,7% (tức tăng 124 ngàn tấn) so với năm 2008. Nếu so sánh giữa lượng cà phê xuất khẩu ở 6 tháng năm 2009 và 6 tháng năm 2010 ta lại thấy lượng xuất khẩu trong 6 tháng 2010 có xu hướng giảm đáng kể (giảm 9,9%) so với 6 tháng năm 2009 tức về lượng giảm 73 ngàn tấn. Nguyên nhân của sự sụt giảm là do hiện nay tỷ lệ cây cà phê già cỗi của nước ta chiếm gần 20% khiến năng xuất giảm, bên cạnh đó do khó khăn của nền kinh tế làm nông dân gặp nhiều khó khăn về vốn nên chăm sóc cây cà phê kém hơn. Ngoài ra nguyên nhân đặc biệt là do ảnh hưởng của thời tiết thay đổi thất thường làm cho sản lượng cà phê cũng thay đổi theo. Vì vậy, đây là vấn đề cần giải quyết trong đó chủ yếu là việc cải tạo về lượng cây già cỗi để việc xuất khẩu cà phê của ta vẫn giữ được vị trí là nước có trữ lượng cà phê xuất khẩu đứng thứ 2 trên thế giới. Mặc khác mỗi năm nước ta sản xuất được khoảng 1 triệu tấn cà phê nhưng lượng tiêu dùng trong nước chỉ ở khoảng 56.000 tấn chiếm chưa tới 6% trong tổng sản lượng làm ra. Chưa tính chung trên cả thế giới tức ở khoảng 0,5kg/người/năm, chỉ tính riêng trong các nước sản xuất cà phê thì mức tiêu thụ nội địa của Việt Nam đứng thứ 19, nhiều nước tiêu thụ khoảng 3kg/người/năm và đặc biệt là Braxin dẫn đầu với mức 5,29 kg/người/năm. Và mỗi năm, tiêu thụ cà phê nội địa của Braxin đạt tới khoảng 600.000 tấn, trên 50% sản lượng cà phê của Việt Nam. Nước ta là một nước đông dân nhưng nhu cầu tiêu thụ cà phê của Việt Nam như hiện nay thì chứng tỏ rằng các doanh nghiệp Việt Nam chưa khai thác hết các tiềm năng của thị trường Việt Nam. Như vậy, để đẩy mạnh tiêu thụ cà phê thì ngoài việc quan tâm đến xuất khẩu cũng phải chú ý, đầu tư mạnh vào thị trường trong nước.
2.1.2. Kim ngạch xuất khẩu
BẢNG 2: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM TỪ NĂM 2007-THÁNG 6/2010
Năm
2007
2008
2009
6 tháng 2009
6 tháng 2010
Chênh lệch 2008/2007
Chênh lệch 2009/2008
Chênh lệch 6 tháng 2010/ 6 tháng 2009
Tỷ lệ (%)
Giá trị (tỷ USD)
Tỷ lệ (%)
Giá trị (tỷ USD)
Tỷ lệ (%)
Giá trị (tỷ USD)
Kim ngạch (tỷ USD)
1,9
2,1
1,7
1,1
0,9
10,5
0,2
(19,0)
(0,4)
(18,2)
(0,2)
Nguồn: tổng hợp từ cục thống kê
Dựa vào bảng số liệu ta thấy rằng từ năm 2007 sang năm 2008 kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng từ 1,9 lên đến 2,1 tỷ USD, tức năm 2008 so với năm 2007 tăng 10,5% hay về trị giá tăng 0,2 tỷ USD, nhưng sang năm 2009 kim ngạch đã giảm xuống chỉ còn 1,7 tỷ USD (tức giảm 19,0% hay giảm 0,4 tỷ USD) so với năm 2008. Tương tự kim ngạch 6 tháng đầu năm năm 2010 lại giảm so với cùng kì năm 2009, giảm một lượng tương đối cao (18,2%). Như vậy, kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong những năm qua có nhiều chuyển biến phức tạp, mặc dù sản lượng xuất khẩu năm 2008/2007 có giảm nhưng kim ngạch lại tăng, trong khi đó sản lượng năm 2009/2008 đang trên đà tăng lên về mặt sản lượng nhưng lại có kim ngạch xuất khẩu giảm và giảm một lượng khá cao (tới 19%), còn 6 tháng năm 2010 giảm vì sản lượng xuất khẩu giảm nên kim ngạch cũng giảm theo đó là điều bình thường. Nguyên nhân của sự biến động này là vì vào năm 2008 mặc dù tình trạng kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng Việt Nam vẫn không bị ảnh hưởng nhiều do chưa hòa nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới nên. Nhưng đến năm 2009 thì không những không tăng mà ngược lại còn bị giảm vì do cách làm thiếu khoa học, phân tán không chuyên nghiệp của không ít nhà sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu từ đó làm cho cà phê không đạt chất lượng, một nguyên nhân đặc biệt nữa là trong năm này do sự biến động của giá cả, tháng 5-2009 giới đầu cơ nước ngoài tung tin, giá cả cà phê sẽ tăng đột biến khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam đua nhau tích trữ, thậm chí có doanh nghiệp vay nóng tiền để mua cà phê. Đến tháng 6-2009, các quỹ đầu cơ trên sàn giao dịch London ngừng mua để dìm giá xuống thấp và lại tung tin giá cà phê trong những tháng kế tiếp sẽ giảm mạnh khiến các doanh nghiệp nước ta bán tháo, bán đổ, chịu lỗ vài ba triệu đồng/tấn. Một thực trạng nữa là có quá nhiều doanh nghiệp xuất khẩu bán hàng giao xa (nhà nhập khẩu ứng trước một tỷ lệ lớn tiền hợp đồng cho nhà xuất khẩu, phần còn lại được tính toán khi giao hàng và chốt giá dựa vào giá cà phê giao dịch trên thị trường kỳ hạn London), doanh nghiệp Việt Nam chấp nhận mua hàng hoá trong nước với giá cao, chờ cơ hội chốt giá trên thị trường London cao hơn để kiếm lời nhưng giá này bị dìm liên tục, đến hạn giao hàng phải chấp nhận “mua đắt bán rẻ” hoặc thương thảo điều chỉnh lùi kỳ hạn giao hàng và chịu mất phí với mức vài chục USD/tấn, tuỳ theo thời gian điều chỉnh. Ngoài ra, điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam là không dự báo được sự lên xuống của thị trường, đồng thời không đánh giá được tình hình cung, cầu thực tế trên thế giới làm cho tình trạng doanh nghiệp Việt Nam đua nhau xuất khẩu đầu vụ vì sợ để lâu sẽ bán không được. Đây là nguyên nhân khiến giá bị dìm xuống thấp. Vì vậy, nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam cần đưa ra những chính sách hợp lý để nâng cao mức kim ngạch xuất khẩu, không chỉ tạo ra mức tăng nhẹ mà phải tăng thật mạnh, thật nhiều cho xứng danh với vị thế của cà phê Việt Nam
2.2. PHÂN TÍCH 4P TRONG MARKETING-MIX VỀ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.2.1 SẢN PHẨM
2.2.1.1. Các chủng loại cà phê được sản xuất và xuất khẩu ở Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam có 3 loại cà phê chủ yếu là Robusta, cà phê Arabica và cà phê Cheri.
Cà phê Robusta (cà phê vối): loại cây trồng này rất thích hợp với khí hậu, thổ nhưỡng ở vùng Tây Nguyên - Việt Nam nhất là vùng đất bazan, Đắc Lắc. Cà phê Robusta có mùi thơm nồng, không chua, độ cafein cao
Cà phê Arabica (cà phê chè): loại này có hai loại đang được trồng ở Việt Nam là:
+ Moka: có mùi thơm quyến rũ, ngào ngạt, vị nhẹ, nhưng sản lượng rất thấp, giá trong nước không cao vì không xuất khẩu được, trong khi giá xuất lại rất cao gấp 2-3 lần cà phê Robusta vì trồng không đủ chi phí nên người nông dân ít trồng loại cà phê này.
+ Catimor: mùi thơm nồng nàn, hơi có vị chua, giá xuất gấp hai lần cà phê Robusta. Nhưng nó không thích hợp với khí hậu vùng đất tây Nguyên vì trái chín trong mùa mưa và không tập trung nên chi phí rất cao. Hiện nay ở Quảng Trị đang trồng thì nghiệm, đại trà loại cây này và có triển vọng rất tốt.
Cà phê Cheri ( cà phê mít): không phổ biến lắm vì có vị rất chua, chịu hạn tốt, công chăm sóc đơn giản, chi phí rất thấp. Nhưng thị trường xuất khẩu không chuộng kể cả trong nước nên ít người trồng loại này.
Mặc dù có ba loại cà phê nhưng cà phê chè là cà phê có giá trị kinh tế nhất trong số các loài cây cà phê. Cà phê chè chiếm 61% các sản phẩm cà phê trên toàn thế giới, trên thị trường cà phê chè được đánh giá rất cao. Cà phê vối là cây quan trọng thứ hai trong các loại cà phê sau cà phê chè (khoảng 39% các sản phẩm cà phê được sản xuất từ loại cà phê này). Nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới là Việt Nam, các nước xuất khẩu quan trọng khác gồm: Côte d’Ivoire, Uganda, Braxin và Ấn Độ. Mặc dù cà phê chè có giá trị kinh tế nhất trong các loại cà phê nhưng nó không được sản xuất nhiều ở Việt Nam do độ cao ở Việt Nam không phù hợp để phát triển, loài cây này lại có nhiều sâu bệnh hại nên không kinh tế bằng trồng cà phê vối đối với Việt Nam. Hiện nay, gần 90% diện tích cà phê ở Việt Nam được trồng cà phê vối, 10% trồng cà phê chè và khoảng 1% còn lại được trồng cà phê mít.
Ngoài ba loại cà phê trên thì hiện nay Việt Nam còn sản xuất và xuất khẩu một loại cà phê có giá trị cao đó là “cà phê Chồn”. Sản phẩm này chủ yếu dành cho người có thu nhập cao và đặc biệt chủ yếu tập trung cho thị trường xuất khẩu. Cà phê chồn được tạo ra thông qua con chồn, cứ vào vụ cà phê chồn hương chọn ăn những quả chín mọng, không bị sâu. Enzym tiêu hoá trong dạ dày con chồn tương tác với vỏ cà phê làm thay đổi thành phần và hương vị hạt cà phê thải ra theo đường tiêu hoá của chồn. Loại cà phê này có hương vị hấp dẫn, quyến rũ đặc biệt đến vị giác của người thưởng thức. Cà phê này có giá trị cao vì ngoài có hương vị độc đáo nó còn được chế biến hoàn toàn từ công nghệ thủ công.
2.2.1.2. Chất lượng xuất khẩu của cà phê trong thời gian qua
Việt Nam hiện là nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn thứ 2 trên thế giới sau Brazil, và cà phê là một trong 5 mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu có giá trị cao. Tuy nhiên, chất lượng cà phê xuất khẩu chưa đồng đều, đặc biệt hàng năm số lượng cà phê xuất khẩu bị thải chiếm tỉ lệ cao nhất thế giới. Chất lượng cà phê là tổng hợp của các yếu tố: chủng loại thực vật, điều kiện địa hình, khí hậu - thời tiết, cách chăm sóc, thu hái, bảo quản, chuẩn bị xuất khẩu và vận chuyển. Trong đó, các khâu canh tác, thu hái, bảo quản, chuẩn bị xuất khẩu và vận chuyển là con người có thể tác động, can thiệp, thay đổi. Mặc dù, nước ta đã đưa ra tiêu chuẩn TCVN 4193:2005 được thừa nhận là phù hợp với các tiêu chí đánh giá chất lượng cà phê hiện nay của thế giới và được Tổ chức Cà phê thế giới (ICO) xem như một tiêu chuẩn chung để kiểm định chất lượng cà phê đang giao dịch trên thị trường thế giới, nhưng trên thực tế thì chúng ta chỉ tập trung kiểm tra về tỷ lệ phần trăm hạt đen, vỡ, và do áp dụng tự nguyện nên có rất ít doanh nghiệp áp dụng. Do đó người ta không thể tính số hạt mốc, hạt chưa chín và có tạp chất lẫn trong cà phê. Xuất hiện tình trạng cà phê chưa chín nhưng vẫn được thu hoạch của người dân vì mỗi vụ sẽ có những đợt thu hoạch khác nhau nên nếu để lâu người dân sợ bị bẻ trộm và tốn công chăm sóc, gìn giữ và giá cà phê cũng cùng mức nên họ cứ thu hoạch một lượng quả chưa chín mà trộn chung với cà phê chín làm cho chất lượng trong mỗi lô cà phê không tốt, còn vấn đề có lẫn tạp chất vì khi bẻ cà phê vào người dân chỉ phơi cà phê ở sân đất nên mới có nhiều tạp chất dính vào. Về yếu tố thời tiết và điều kiện bảo quản thì tương đối tốt vì cây cà phê khá phù hợp với thời tiết của nước ta, còn khâu bảo quản cũng tương đối ổn vì khi người dân thu hoạch các doanh nghiệp sẽ thu mua về và có nơi bảo quản an toàn.
2.2.2. GIÁ CẢ
2.1.2.1. Giá xuất khẩu cà phê Việt Nam trong những năm qua
BẢNG 3: GIÁ XUẤT KHẨU CÀ PHÊ TỪ NĂM 2007-THÁNG 6/2010
Năm
2007
2008
2009
6 tháng 2009
6 tháng 2010
Chênh lệch 2008/2007
Chênh lệch 2009/2008
Chênh lệch 6 tháng 2010/ 6 tháng 2009
Tỷ lệ (%)
Giá trị (USD/tấn)
Tỷ lệ (%)
Giá trị (USD/
tấn)
Tỷ lệ (%)
Giá trị (USD/
tấn)
Giá XK
(USD/tấn)
1.550
1.990
1.460
1.490
1.390
28,4
440
(26,63)
(530)
(6,7)
(100)
Nguồn: tổng hợp từ cục thống kê
Ta thấy rằng, nếu xét riêng từ năm 2007 đến năm 2009 thì giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam cũng có những biến động đáng quan tâm. Điển hình như năm 2008/2007 tăng 28,4% tức giá trung bình tăng 440 USD/tấn. Nguyên nhân của hiện tượng này vì ta biết rằng từ năm 2008/2007 sản lượng cà phê xuất khẩu của ta giảm do ảnh hưởng của các nguyên nhân mà ta đã phân tích ở trên, vì sản lượng giảm nhưng với nhu cầu không đổi sẽ làm giá cà phê tăng lên cũng là chuyện bình thường. Tương tự như vậy sang năm 2009/2008 sản lượng cà phê có triển vọng hơn do được cải thiện nên làm giá cà phê giảm xuống 26,63% tức giảm 530 USD/tấn. Đặc biệt 6 tháng 2010 so với 6 tháng 2009, ta thấy cả về sản lượng lẫn giá cũng giảm, giá chênh