Ngân hàng TMCP Á Châu đã được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do NHNNVN cấp ngày 24/04/1993, Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP. Hồ Chí Minh cấp ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993, ACB chính thức đi vào hoạt động. Với ngành nghề kinh doanh chính (SBU):
Huy động vốn ngắn, trung và dài hạn theo các hình thức tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, chứng chỉ tiền gửi; tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư; nhận vốn từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước; Cho vay ngắn, trungvà dài hạn; chiết khấu thương phiếu, công trái và giấy tờ có giá; đầu tư vào chứng khoán và các tổ chức kinh tế;
Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng;
Kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc;
Thanh toán quốc tế, bao thanh toán;
Môi giới và đầu tư chứng khoán; lưu ký, tư vấn tài chính doanh nghiệp và bào lãnh phát hành;
Cung cấp các dịch vụ về đầu tư, quản lý nợ và khai thác tài sản, cho thuê tài chính và các dịch vụ ngân hàng khác.
Tầm nhìn chiến lược:
- Ngay từ ngày đầu hoạt động, ACB đã xác định tầm nhìn là trở thành ngân hàng thương mại cổ phần bán lẻ hàng đầu Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam vào thời điểm đó “Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục tiêu là cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ” là một định hướng rất mới đối với ngân hàng Việt Nam, nhất là một ngân hàng mới thành lập như ACB.
- ACB đã hình dung Tầm nhìn 2015, theo đó ACB sẽ phấn đấu trở thành một trong ba tập đoàn tài chính- ngân hàng hàng đầu và hoạt động có hiệu quả ở Việt Nam , với hai trụ cột kinh doanh là ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư.
30 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2386 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích chiến lược ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu ACB, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI THẢO LUẬN
Môn: Quản trị chiến lược
Đề tài: Phân tích chiến lược Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB)
I. Giới thiệu về NHTM ACB
Logo:
Tên pháp định : Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Á Châu
Tên quốc tế : Asia Commercial Bank
Tên viết tắt : ACB
Trụ sở chính : 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3, Tp. HCM
Điện thoại : : 84.8.3929 0999
Fax : 84.8.3839 9885
Webside : www.acb.com.vn
Email : acb@acb.com.vn
Ngân hàng TMCP Á Châu đã được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do NHNNVN cấp ngày 24/04/1993, Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP. Hồ Chí Minh cấp ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993, ACB chính thức đi vào hoạt động. Với ngành nghề kinh doanh chính (SBU):
Huy động vốn ngắn, trung và dài hạn theo các hình thức tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, chứng chỉ tiền gửi; tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư; nhận vốn từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước; Cho vay ngắn, trungvà dài hạn; chiết khấu thương phiếu, công trái và giấy tờ có giá; đầu tư vào chứng khoán và các tổ chức kinh tế;
Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng;
Kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc;
Thanh toán quốc tế, bao thanh toán;
Môi giới và đầu tư chứng khoán; lưu ký, tư vấn tài chính doanh nghiệp và bào lãnh phát hành;
Cung cấp các dịch vụ về đầu tư, quản lý nợ và khai thác tài sản, cho thuê tài chính và các dịch vụ ngân hàng khác.
Tầm nhìn chiến lược:
Ngay từ ngày đầu hoạt động, ACB đã xác định tầm nhìn là trở thành ngân hàng thương mại cổ phần bán lẻ hàng đầu Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam vào thời điểm đó “Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục tiêu là cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ” là một định hướng rất mới đối với ngân hàng Việt Nam, nhất là một ngân hàng mới thành lập như ACB.
ACB đã hình dung Tầm nhìn 2015, theo đó ACB sẽ phấn đấu trở thành một trong ba tập đoàn tài chính- ngân hàng hàng đầu và hoạt động có hiệu quả ở Việt Nam , với hai trụ cột kinh doanh là ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư.
Sứ mạng kinh doanh: Sứ mạng kinh doanh của ACB được thể hiện thông qua khẩu hiệu: “ Ngân hàng Á Châu- ngân hàng của mọi nhà”
Triết lý kinh doanh: Tăng trưởng bền vững, quản lý rủi ro hiệu quả, duy trì khả năng sinh lời cao và chỉ số tài chính tốt, đầu tư chiều sâu vào con người và xây dựng văn hóa công ty lành mạnh.
Mục tiêu: Ngân hàng Á Châu luôn phấn đấu là ngân hàng thương mại bán lẻ hàng đầu Việt Nam, hoạt động năng động, sản phẩm phong phú, kênh phân phối đa dạng, công nghệ hiện đại, kinh doanh an toàn hiệu quả, tăng trưởng bền vững, đội ngũ nhân viên có đạo đức nghề nghiệp và chuyên môn cao.
Kết quả hoạt động kinh doanh của ACB:
B1.BẢNG KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA ACB (Đơn vị tính : tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2008
2009
30/9/2010
Vốn điều lệ
6.356
7.814
9.377(từ 11/11/2010)
Tổng tài sản
105.306
168.000
177.944
Tổng vốn huy động
75.113
108.992
123.963
Tổng dư nợ
34.833
62.358
80.481
Lợi nhuận trước thuế
2.561
2.838
2.000
Lợi nhuận sau thuế
2.210
2201
1.488
ROE(LN trước thuế/Vốn CSH bình quân)
36,7%
31,8%
ROA( LN trước thuế/TTS bình quân)
2,6%
2,1%
(Nguồn : Báo cáo tài chính hợp nhất ACB năm 2008,2009,và đến 30/9/2010)
Nhận xét: Qua kết quả hoạt động của ACB trong 3 năm, ta thấy ACB có sự phát triển bùng nổ, vượt bậc qua từng năm :
Tổng tài sản không ngừng tăng lên với tốc độ tăng đáng nể: Năm 2009 tổng tài sản tăng 59,5% so với năm 2008. Trong 9 tháng đầu năm 2010 tổng tài sản tăng 5,9% so với cả năm 2009
Huy động vốn là một hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho ACB.Tốc độ tăng trưởng huy động vốn ở mức cao. Trong 9 tháng đầu năm 2010 tổng vốn huy động tăng 13,7% so với cả năm 2009
Các chỉ tiêu: vốn điều lệ, tổng dư nợ cũng tăng lên qua từng năm
Trong năm 2009 tổng lợi nhuận trước thuế tăng 10,8% so với năm 2008 tuy nhiên lợi nhuận sau thuế lại giảm do ACB đã hết thời hạn được giảm 50% thuế suất.
Với các chỉ số tài chính trên ta có thể thấy phần nào vị thế của ngân hàng ACB trong ngành ngân hàng Việt Nam.
II.Phân tích môi trường kinh doanh của NHTM ACB
2.1 Phân tích môi trường bên ngoài :
2.1.1 Ngành kinh doanh của ACB
Năm 2006, 2007 tốc độ tăng trưởng của các ngân hàng thương mại đang trong giai đoạn phát triển với tốc độ cao thì khủng hoảng kinh tế xảy ra, nên năm 2008, 2009 các ngân hàng đều gặp khó khăn lớn.
Hai mảng hoạt động chính là tín dụng và huy động vốn của ngành ngân hàng tăng trưởng mạnh mẽ, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng tín dụng và tiền gửi cao hơn nhiều so với tốc độ tăng GDP thực tế.
B2.Bảng tăng trưởng TD, TG, GDP
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Tăng trưởng tín dụng
22
28
42
32
25
54
22
38
Tăng trưởng tiền gửi
19
26
32
32
37
50
26
29
Tăng trưởng GDP
7.08
7.34
7.79
8.44
8.23
8.46
6.23
5.2
(Nguồn IMF, NHNN)
Ngoài hai mảng hoạt động truyền thống là tín dụng và huy động vốn, mảng hoạt động dịch vụ cũng có sự phát triển mạnh.
Dù quy mô hoạt động tăng trưởng mạnh mẽ nhưng theo một số kết quả thống kê, các chỉ tiêu tín dụng/GDP, huy động/GDP của Việt Nam vẫn thấp hơn các nước trong khu vực, điều này cho thấy khả năng còn tiếp tục tăng trưởng trong tương lai của ngành ngân hàng.
Kết luận: Dựa trên tốc độ phát triển của ngành ngân hàng hiện tại, chúng ta có thể nhận thấy đây là một ngành kinh doanh khá hấp dẫn, đang có nhu cầu phát triển rất nhanh, thu hút sự chú ý của doanh nghiệp.
2.2.3 Tác động của môi trường vĩ mô
Nhân tố kinh tế:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới tiếp tục được thực hiện toàn diện và sâu sắc hơn. Kinh tế tăng trưởng nhanh, năm năm qua GDP tăng bình quân 7.5%, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm năm tới đã được Quốc hội thông qua, phấn đấu sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Về kinh tế, dự kiến tốc độ tăng GDP trung bình giai đoạn 2011-2015 là 7 - 7.5%/ năm. Với tốc độ tăng trưởng đó, tới năm 2015 GDP bình quân trên đầu người của Việt nam sẽ đạt gần 2.000 USD, tăng 1,7 lần năm 2010. Khi đó nước ta sẽ vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp để ghi tên mình vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Với GDP đầu người đó nước ta đồng thời đã taọ được điều kiện để bước vào giai đoạn “cất cánh” – giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lạm phát tăng cao trong những tháng đầu năm 2008 đã tác động đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong đó có hoạt động của các Ngân hàng thương mại (NHTM). Đối với các NHTM, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát tăng cao, sức mua đồng tiền giảm xuống, đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư và thực hiện các dich vụ ngân hàng.
Việt Nam hiện vẫn còn là một nền kinh tế có quy mô không lớn. Tỷ lệ tiết kiệm trong thu nhập còn thấp. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển lớn trong khi khả năng cung tiền vẫn hạn chế từ hoạt động tiền gửi, 75% số tiền gửi đều ngắn hạn trong khi số còn lại có thời gian chỉ từ 1-5 năm. Điều này tạo nên sự phụ thuộc vào nguồn cung tiền của ngân hàng nhà nước và quy mô của bản thân ngân hàng. Như vậy để tăng khả năng chủ động và đảm bảo khả năng phát triển đòi hỏi ngân hàng phải lựa chọn giữa các chính sách như ra tăng quy mô thông qua các đợt tăng vốn hay tập trung thu hút nguồn tiền gửi bằng việc tăng cường dịch vụ khách hàng.
Cho đến nay thị trường tài chính hiện vẫn chưa hoàn thiện. Quá trình mở cửa tạo ra những phân khúc thị trường mới, những dịch vụ và sản phẩm tài chính mới nhưng cùng lúc đó thì vẫn thiếu các chế tài và luật lệ chi tiết khiến sự kiểm soát của chính phủ trong ngành trở nên hạn chế. Điều này làm ra tăng rủi ro thị trường và gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển lành mạnh của các ngân hàng
Nhân tố công nghệ:
Tính chất toàn cầu của ngân hàng đặt ra nhu cầu về chia sẻ thông tin cô cùng phức tạp. Đầu tư và hỗ trợ về công nghệ thông tin là đòi hỏi tất yếu để ngân hàng có thể liên kết được mạng lưới rộng lớn của mình và đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Vì thế, các ngân hàng phải luôn đầu tư, phát triển các công nghệ mới nhất để đáp ứng kịp với nền kinh tế ngày một phát triển.
Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và đang chuyển đổi sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút riền tự động ATM, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ. Máy thánh toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hoá và trung tâm bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hoá dịch vụ bằng giấy, và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế giới.
Công nghệ thông tin đã mang đến cho hệ thống ngân hàng những giải pháp kinh doanh mềm dẻo. Các ngân hàng đua nhau đưa ra các dịch vụ hiện đại, thân thiện, tạo ra những lợi ích nhỏ nhất để giữ khách hàng. Trước đây, 85 – 90% lãi của ngân hàng là từ tín dụng, chủ yếu là từ tín dụng ngắn hạn. Nhưng hiện nay, tín dụng dài hạn chiếm tỷ trọng cao trong các khoản tín dụng nên sẽ ảnh hưởng nhiều hơn đến thu nhập của ngân hàng. Tình thế này buộc ngân hàng phải thu phí từ các dịch vụ, làm sao để khách hàng trả tiền nhưng không thấy tiếc. Trước đây, người tiêu dùng phải đến ngân hàng để giao dịch, giờ thì chỉ cần một chiếc điện thoại là có thể thanh toán và nhận kết quả từ ngân hàng
Nhân tố luật pháp – chính trị:
Năm 2009, Theo khảo sát toàn cầu về mức độ yên bình, Việt Nam đứng thứ 39 trên tổng số 144 nước, được đánh giá cao về sự thân thiện với người nước ngoài và nguy cơ xảy ra khủng bố thấp. Chỉ số hòa bình toàn cầu (Global Peace Index), do Viện Hòa bình Kinh tế tại Australia phối hợp với Đơn vị tình báo kinh tế thực hiện - xếp hạng 144 quốc gia về mức độ yên bình - theo định nghĩa là không có bạo lực.
Các yếu tố thể chế - luật pháp là yếu tố có ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh. Các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến khả năng tồn tại và phát triển của bất cứ ngành nào. Như vậy, ngành ngân hàng Việt Nam, tất nhiên, sẽ phải bắt buộc tuân theo chế độ luật pháp tại Việt Nam. Nó sẽ phải tuân theo chính sách thuế, các đạo luật liên quan và đặt biệt chịu sự điều tiết trực tiếp của NHNN Việt Nam.
Việc Việt Nam gia nhập, ký hết các hiệp định với WTO, đã tạo ra không ít những cơ hội và thách thức to lớn cho các ngân hàng. Hội nhập quốc tế sẽ nâng cao tính cạnh tranh và kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng sẽ khuyến khích tạo ra những ngân hàng có quy mô lớn, tài chính lành mạnh và kinh doanh hiệu quả, các ngân hàng kinh doanh yếu kém sẽ bị đào thải hoặc phải vươn lên, nếu muốn tồn tại. Hội nhập cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong nước thâm nhập vào thị trường quốc tế, mở cơ hội cho ngành ngân hàng thực hiện các cuộc trao đổi, hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực hoạch định chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối, thanh tra, giám sát phòng ngừa rủi ro, lĩnh vực thanh toán và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới. Vì thế uy tín và vị thế của hệ thống NHVN sẽ được nâng lên, ít nhất là trên thị trường khu vực. Điều này thực sự tạo cho hệ thống NHVN nói chung và các NHTMCP nói riêng nhiều cơ hội để từng bước nâng cao hiệu quả điều hành và phát triển vững mạnh.
Nhân tố văn hoá – xã hội:.
Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hoá và các yếu tố xã hội đặc trưng, và những yếu tố này là đặc điểm cho người tiêu dùng tại cá khu vực đó. Các doanh nghiệp phải hiểu rõ các đặc điểm này để khai thác và sử dụng phù hợp các vấn đề văn hoá - xã hội, về các nhóm khách hàng, quy mô, tỷ lệ tăng dân số, cấu trúc độ tuổi, tôn giáo và ngôn ngữ… của quốc gia đó trong các chiến lược kinh doanh doanh của công ty.
Về văn hóa, Việt Nam có một nền văn hóa rất đa dạng, phong phú và giàu bản sắc bởi đó là sự giao thoa văn hóa của 54 sắc tộc cùng tồn tại trên lãnh thổ. Bên cạnh đó, văn hóa Việt Nam còn chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cùng với nền văn minh lúa nước của người dân Đông Nam Á.
Việt Nam là một nước có nhiều tôn giáo, theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam năm 2005, hiện có gần 10 triệu tín đồ Phật giáo, 5,5 triệu tín đồ Công giáo, 2,4 triệu tín đồ đạo Cao Đài, 1,3 triệu tín đồ đạo Hòa Hảo, 1 triệu tín đồ Tin Lành và 60.000 tín đồ Hồi giáo. Ngoài ra, một số người Chăm ở Nam Trung Bộ có theo đạo Bà la môn.
Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận những giao thoa văn hoá của các nền văn hoá khác vào quốc gia. Sự giao thoa này sẽ thay đổi tâm lý tiêu dùng, lối sống, và tạo ra triển vọng phat triển với ngành. Từ đó các NHTM có thể tận dụng để phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới để thu hút, lôi kéo các khách hàng. Điều kiện văn hóa – xã hội có nhiều thuận lợi cho ngành ngân hàng phát triển.
Về dân số, Việt Nam hiện có hơn 85 triệu người, trong đó hơn 75% là dân số trẻ. Lớp trẻ đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành thị trường ngân hàng bán lẻ, tuy nhỏ bé nhưng đang rất phát triển tại Việt Nam. So với thế hệ trước, người trẻ tuổi không ngại vay tiền ngân hàng và có xu hướng thích sử dụng kênh phân phối sản phẩm theo kiểu điều khiển từ xa. Theo kết quản nghiên cứu 13.000 khách hàng của các ngân hàng trong khu vực thì khoảng cách về sở thích và thói quen tiêu dùng giữa 2 thế hệ ở Việt Nam có độ khác biệt rõ ràng hơn hẳn so với 11 nước châu Á khác.
Tuy nhiên, thói quen sử dụng tiền mặt của đại bộ phận dân cư Việt Nam là rào cản lớn cho việc phát triển dịch vụ và sản phẩm ngân hàng. Các ngân hàng cần phải vượt qua thách thức này để mở rộng, phát triển các hoạt động của mình.
2.2.4 Đánh giá cường độ cạnh tranh.
Nguy cơ từ các ngân hàng mới
Đe doạ gia nhập mới là đe doạ từ các doanh nghiệp hiện tại chưa cạnh tranh trong cùng ngành kinh doanh của ACB, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và quyết định gia nhập ngành. Đây là đe doạ cho các doanh nghiệp hiên tại. Các doanh nghiệp hiện tại cố gắng ngăn cản các đối thủ tiềm ẩn muốn gia nhập ngành bởi vì càng nhiều doanh nghiệp trong cùng một ngành kinh doanh thì cạnh tranh càng khốc liệt hơn, thị trường và lợi nhuận sẽ bị chia sẻ, vị trí của doanh nghiệp sẽ thay đổi. Mức độ thuận lợi và khó khăn cho việc gia nhập ngành của các đối thủ cạnh trạnh tiềm ẩn phụ thuộc phẩn lớn vào hàng rào lối vào một ngành kinh doanh. Nếu các ngân hàng mới gia nhập thị trường thì mức độ cạnh tranh sẽ càng lúc càng gia tăng. Tuy nhiên rào cản gia nhập mới của ngành cũng đang bắt đầu ra tăng, chủ yếu gồm yêu cầu vốn tối thiểu (trên 3000 tỉ đồng), các quy định thành lập ngân hàng mới và kiểm soát thành lập từ phía chính phủ. Yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu sẽ hạn chế sự hình thành các ngân hàng quy mô nhỏ, một loại hình khá phát triển khi mà thị trường mới hình thành. Các quy định thành lập hiện nay cũng đang được hoàn thiện theo chiều hướng chặt chẽ nghiêm ngặt hơn
Theo cam kết WTO thì lộ trình mở cửa ngành ngân hàng là 7 năm. Và tất yếu là ngành ngân hàng sẽ có sự thay đổi cơ bản khi mà các tổ chức tài chính nước ngoài có thể nắm giữ cổ phần của các ngân hàng Việt Nam hay sự xuất hiện của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Với những lợi thế như cơ sở hạ tầng dịch vụ hơn hẳn, dịch vụ khách hàng chuyên nghiệp, công nghệ tốt hơn, có mạng lưới rộng khắp toàn cầu và có nhiều lựa chọn hơn do được làm từ đầu các ngân hàng này sẽ tạo ra một áp lực lớn đến với các ngân hàng trong nước. Trong khi đó theo đánh giá thì các ngân hàng Việt Nam chưa tạo được điểm khác biệt về chiến lược sản phẩm, dịch vụ. Như vậy sự thâm nhập của các ngân hàng mới trong tương lai có thể gây ảnh hưởng lớn tới bản thân các ngân hàng hiện tại nếu không có một chính sách phù hợp.
Còn theo các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định chung về hợp tác thương mại dịch vụ (AFAS) của Hiệp hội các nước ASEAN, Việt Nam phải gỡ bỏ hoàn toàn các quy định về khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, dịch vụ, giá trị giao dịch của các ngân hàng nước ngoài từ năm 2008.
Khi nhìn vào con số các ngân hàng nước ngoài có văn phòng đại diện tại Việt Nam và các ngân hàng nước ngoài có vốn cổ phần trong các ngân hàng thương mại nội địa, số ngân hàng 100% vốn nước ngoài nhất định sẽ còn tăng lên trong tương lai.
Các ngân hàng nước ngoài là vậy, rào cản cho sự xuất hiện của cá ngân hàng có nguồn gốc nội địa đang được nâng cao lên sau khi Chính phủ tạm ngừng cấp phép thành lập ngân hàng mới từ tháng 8 – 2008. Ngoài các quy định về vốn điều lệ, quãng thời gian phải liên tục có lãi, các ngân hàng mới thành lập còn bị giám sát chặt bởi Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên điều đó sẽ không thể ngăn cản những doanh nghiệp, có đủ điều kiện, tham gia vào ngành ngân hàng một khi Chính phủ cho phép thành lập ngân hàng trở lại.
Rào cản gia nhập còn được thể hiện qua các phân khúc thị trường, thị trường mục tiêu mà các ngân hàng hiện tại đang nhắm đến, giá trị thương hiệu cũng như cơ sở khách hàng, lòng trung thành của khách hàng mà các ngân hàng đã xây dựng được. Những điều này đặc biệt quan trọng bởi vì nó sẽ quyết định khả năng tồn tại của một ngân hàng đang muốn gia nhập vào thị trường Việt Nam.
Nhìn vào ngành ngân hàng Việt Nam cũng như thế giới đang bị bao trùm bởi khủng hoảng kinh tế, rào cản gia nhập khá cao khiến cho nguy cơ xuất hiện ngân hàng mới trong tương lai gần là khá thấp. Nhưng một khi kinh tế thế giưới hồi phục cộng với sự mở cửa của ngành ngân hàng theo cam kết với WTO và các tổ chức khác, sự xuất hiện của các ngân hàng mới là một điều gần như chắc chẵn.
Đe dọa từ các sản phẩm thay thế
Ngoài hình thức gửi tiết kiệm ở ngân hàng, người tiêu dùng Việt Nam còn có khá nhiều sự lựa chọn khác như giữ ngoại tệ, đầu tư vào chứng khoán, các hình thức bảo hiểm, đàu tư vào kim loại quý (vàng, kim cương…) hoặc đầu tư vào nhà đất. Đó là chưa kể các hình thức không hợp pháp như “chơi hụi”. Không phải lúc nào lãi suất ngân hàng cũng hấp dẫn người tiêu dùng. Chẳng hạn như thời điểm này, giá vàng đang sốt, tăng giảm đột biến trong ngày, trong khi đo la Mỹ ở thị trường tự do cũng biến động thì lãi suất tiết kiệm của đa số các ngân hàng chỉ ở mức 7–8 % một năm.
Việc đầu tư chứng khoán, mang lại lơi nhuận rất cao cho người đầu tư trong thời gian ngắn, nhưng khả năng sinh lợi thu được cũng đi đôi với tỷ lệ rủi ro mà nhà đầu tư chấp nhận. Tuy nhiên, nó luôn là nơi hấp dẫn nhà đầu tư, với tỷ lệ thanh khoản cao.
Thêm vào đó, hiện nay thị trường bất động sản cũng là nơi thu hút đông đảo các nhà đầu tư dài hạn. Kênh đầu tư bất động sản vẫn luôn đem lại nguồn lợi nhuận cao, và đầu tư an toàn nếu nhà đầu tư khôn ngoan trong quyết định đầu tư của mình.
Đối với khách hàng doanh nghiệp, nguy cơ ngân hàng bị thay thế không cao lắm do đối tượng khách hàng này cần sự rõ ràng các chứng từ, hoá đơn trong các gói sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng. Nếu có phiền hà xảy ra trong quá trình sử dụng sản phẩm, dịch vụ thì đối tượng khách hang này thường chuyển sang ngân hàng khác vì những lý do trên thay vì tìm tới các dịch vụ ngoài ngân hàng.
Đối với khách hàng tiêu dùng thì lại khác, thói quen sử dụng tiền mặt tại nhà hoặc nếu có tài khoản thì khi có tiền lại rút hết ra để sử dụng. Các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp trả lương qua tài khoản ngân hàng nhằm thúc đẩy các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần làm minh bạch tài chính cho mỗi người dân. Nhưng các địa điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ lại đa số là các nhà hàng, khu mua sắm sang trọng, những nơi không phải người dân nào cũng tới mua sắm.
Quyền lực của các nhà cung cấp.
Nhà cung cấp trong ngành ngân hàng khá đa dạng. Họ có thể là những khách hàng đầu tư cho ngân hàng hoạt động, hoặc là những công ty chịu trách nhiệm về hệ thống hoặc bảo trì máy ATM. Hiện tại ở Việt Nam, các ngân hàng thường tự đầu tư trang thiết bị và chọn cho mình những nhà cung cấp riêng tuỳ theo điều kiện. Điều này góp phần giảm quyền lực của nhà cung cấp thiết bị khi họ không thể cung cấp cho cả một thị trường lớn mà phải cạnh tranh với các nhà cung cấp khác. Tuy