- Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
- Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chỉ dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng thiết bị.) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng.), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
- Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn để được hưởng lãi suất định trước.
- Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền mua hàng hóa và bán ra với giá cao hơn để hưởng chênh lệch giá khi mua và khi bán.
78 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1980 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích đầu tư trong hệ thống doanh nghiệp Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 13: Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Phân tích tình hình đầu tư trong hệ thống DNNN.
Nhóm 11
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT:
Chương I: Những vấn đề lí luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
I.Đầu tư phát triển:
1.1. Các khái niệm cơ bản:
- Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
- Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chỉ dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng thiết bị...) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng...), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
- Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn để được hưởng lãi suất định trước.
- Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền mua hàng hóa và bán ra với giá cao hơn để hưởng chênh lệch giá khi mua và khi bán.
1.2.Phân loại đầu tư
-Theo nguồn vốn đầu tư
+ Đầu tư trong nước.
+ Đầu tư nước ngoài.
-Theo hình thức đầu tư.
+ Tự đầu tư.
+ Liên doanh
+ BOT, BT, BTO.
-Theo phương thức thực hiện.
+ Mua
+ Xây dựng
+ Thuê
-Theo luật đầu tư.
+ Đầu tư trong nước.
+ Đầu tư nước ngoài
+ FDI
-Theo thẩm quyền đầu tư.
+ Thủ tướng chính phủ (dự án quan trọng quốc gia)
+ Chủ tịch UBND tỉnh, tp trực thuộc trung ương, bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan trực thuộc chính phủ.
+ Thủ trưởng các cấp được ủy quyền hoặc được phân cấp theo quy định.
-Theo thời gian thực hiện & phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư
I.3. Mục đích của đầu tư phát triển:
- Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Trong đó, đầu tư nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực...
I.4. Đặc điểm của đầu tư phát triển:
- Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn.
+ Quy mô vốn đầu tư lớn nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Vì thế đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lý, xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm,đánh giá kiểm tra năng lực thi công công trình,giám sát chặt chẽ trong việc sử dụng vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,tiết kiệm được vốn và thu hồi vốn.
+ Lao động cần sử dụng cho các dự án lớn đặc biệt đối với các dự án trọng điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo,quản lý, sử dụng và đãi ngộ cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lại lao động, giải quyết lao động dôi dư cùng các chế độ liên quan.
- Thời kì đầu tư kéo dài.
Thời kỳ đầu tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và dựa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn lớn lại nằm khê động suốt thời gian thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trong hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý cho chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dụng cơ bản,thực hiện tiết kiệm,chống thất thoát lãng phí,sử dụng một cách có hiệu quả đồng vốn đầu tư.
- Thời kì vận hành kết quả đầu tư kéo dài.
Thời gian vận hành kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Trong suốt quá trình vận hành , các thành quả đầu tư chịu tác động hai mặt, cả tích cực và tiêu cực của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội... Để thích ứng với đặc điểm này, công tác quản lý hoạt động đầu tư cần chú ý 1 số nội dung sau:
+ Cần xâu dựng cư chế và phương pháp dự báo khoa học cả ở cấp vi mô và vĩ mô về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư tương lai, dự khiến khả năng cung từng năm và toàn bộ vòng đời dự án.
+ Quản lý tốt quá trình vận hành,quy hoạch kế hoạch hợp lý, nhanh chóng đưa các thành quả đầu tư vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình.
+ Chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian đầu tư. Đầu tư trong năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Đây là đặc điểm rất riêng của lĩnh vực đầu tư, ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư.
- Đại bộ phận các công trình đầu tư thường phát huy tác dụng ngay tại nơi nó được tạo dựng nên do đó chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên,kinh tế, xã hội tại vùng đó.
Không thể dễ dàng di chuyển các công trình đã đầu tư từ nơi này sang nơi khác, nên công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển cần phải quán triệt đặc điểm này trong một số nội dung sau:
+ Trước tiên, cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng. Đầu tư cái gì, công suất bao nhiêu là hợp lý... cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, dựa trên căn cứ khoa học.
+ Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý. Để làm được điều này cũng cần phải dựa trên căn cứ khoa học, dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, văn hóa... Cần xây dựng một bộ tiêu chí khác nhau và nhiều phương án so sánh để lựa chọn vùng lãnh thổi và địa điểm đầu tư cụ thể và hợp lý nhất, sao cho khai thác được tối đa lợi thế vùng và không gian đầu tư cụ thể, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
- Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao.
Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài... nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu... có nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất sản suất không đạt công suất thiết kế... Vậy để quản lý hoạt động đầu tư phát triển hiệu quả, cần phải thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro bao gồm:
+ Nhận diện rủi ro đầu tư. Có nhiều nguyên nhân rủi ro, do vậy xác định đúng nguyên nhân rủi ro sẽ là khâu quan trọng đầu tiên để tìm ra giải pháp phù hơp để khắc phục.
+ Đánh giá mức độ rủi ro. Rủi ro xảy ra có khi rất nghiêm trọng nhưng có khi chưa đến mức gây nên những thiệt hại về kinh tế. Đánh giá đúng mức độ rủi ro sẽ đưa ra biện pháp phòng và chống phù hợp.
+ Xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro. Mỗi loại rủi ro và mức độ rủi ro nhiều hay ít sẽ có biện pháp phòng và chồng tưng ứng nhằm hạn chế thấp nhất các thiệt hại có thể có do rủi ro này gây ra.
I.5. Vai trò của đầu tư phát triển
I.5.1. Trên góc độ vĩ mô:
- Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
Trong ngắn hạn, đầu tư tác động đến tổng cầu khi tổng cung chưa kịp thay đổi. Khi đầu tư tăng làm cho tổng cầu tăng kéo theo sản lượng cân bằng và giá cả của các yếu tố đầu vào cũng tăng theo. Khi thành quả của đầu tư chưa phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng thêm, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng lại kích thích sản xuất hơn nữa, sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
- Đầu tư tác động đến sự ổn định về kinh tế.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá cả các hàng hóa có liên quan ( giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) tăng đến một mức nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương thực tế ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác khi tăng đầu tư làm cho cầu các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện phát triển nền kinh tế.
Khi tăng đầu tư cũng dẫn đến các tác động hai mặt nhưng theo chiều hướng với các tác động trên đây. Vì vậy trong điều hành kinh tế vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết các tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy được các tác động tốt, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
- Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Về mặt lý thuyết, hầu hết các tư tưởng, mô hình và lý thuyết về tăng trưởng kinh tế đều trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận đầu tư và việc tích lũy vốn cho đầu tư là một nhân tố quan trọng trong việc gia tăng năng lực sản xuất, cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế. Việc gia tăng quy mô vốn đầu tư sẽ góp phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng quốc gia và sản lượng bình quân mỗi lao động. Theo mô hình Harrod-Domar, mức tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào mức tăng vốn đầu tư thuần.
Mức gia tăng sản lượng = mức đầu tư thuần/ICOR
Nếu ICOR không đổi mức tăng trưởng hoàn toàn phụ thuộc vào mức đầu tư.
Tại các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 – 7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế lao động và sử dụng nhiều công nghệ có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2 – 3 do thiếu vốn thừa lao động, sử dụng nhiều lao động để thay thế vốn, sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùnh lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của các chính sách kinh tế nói chung.
Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc nội dự kiến. Tại nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một cái huých ban đầu, tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế ( các nước NICS, các nước Đông Nam á )
- Đầu tư tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Đầu tư có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua những chính sách tác động đến cơ cấu đầu tư.Nếu có chính sách đầu tư hợp lý sẽ tạo đà cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.Tỷ trọng phân bổ cho các ngành khác nhau sẽ mang lại những hiệu quả và các kết quả khác nhau. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9% – 10%) là tăng cường đầu tư tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông- ngư nghiệp do có hạn chế về đất đai và khả năng sinh học , để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5% – 6% là rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế đất nước. Có thể thấy giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ.Đầu tư vốn nhằm mục đích mang lại hiệu quả kinh tế cao,tăng trưởng nhanh trên toàn bộ nền kinh tế sẽ dẫn đến hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý.Ngược lại, tăng trưởng kinh tế cao kết hợp với chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo nguồn vốn đầu tư dồi dào,định hướng vào các ngành hiệu quả hơn.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết các mất cân đối về phát triển giữa các vùng và lãnh thổ, đưa vùng kém phát triển thoát khỏi đói nghèo, phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị...của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển.
- Đầu tư tác động tới khoa học và công nghệ.
Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học công nghệ của một doanhh nghiệp và quốc gia.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất nước ta hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Việt Nam là một trong số 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển về công nghệ lâu dài, nhanh chóng và vững chắc.
Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu và phát minh ra cônh nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù tự nghiên cứu hay nhập công nghệ từ nước ngoài cũng cần phải có tiền, cần có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư đều là những phương án không khả thi.
I.5.2. Trên góc độ vi mô:
Trên góc độ vi mô thì đầu tư là nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của các cơ sản xuất, cung ứng dịch vụ và của cải các đơn vị vô vị lợi. Để tạo dựng cơ sở vật chất, các kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ nào đều phải xây dưng nhà xửng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm, lắp dặt máy móc, thiết bị, tiến hành công tác xây dựng cơ bản khác và thực hiện các chi phí gắn liền với các hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Đây chính là biểu hiện cụ thể của hoạt động đầu tư.
II. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp:
II.1. Tính tất yếu của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp:
II.1.1.Vĩ mô:
- Đầu tư, phát triển DN chính là để huy động mọi nguồn vốn, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần thực hiện chiến lược CNH-HĐH.
Nước ta là nước đang phát triển, chúng ta đang cần nhiều vốn để đầu tư,nhà nước chỉ có khả năng dùng ngân sách để đầu tư vào cơ sở hạ tầng là chính.Các ngành sản xuất cần được đầu tư từ các nguồn khác, phát triển DN chính là cách huy động thêm các nguồn vốn đầu tư của nhân dân, để phát triển kinh tế. Nước ta lại đang rất thừa lao động mà DN lại rất có ưu thế trong việc tạo việc làm vì :vốn đầu tư cho mỗi chỗ làm thấp hơn, tạo ra việc làm mới nhanh chóng hơn so với doanh nghiệp lớn,tổng vốn đầu tư không quá lớn nên tính khả thi cao,có thể phát triển ở mọi nơi để thu hút lao động, yêu cầu về tay nghề trình độ lao động không cao. Do đó, phát triển DN là rất thích hợp với hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay. Đầu tư phát triển DN chính là cách để thực hiện CNH-HĐH nông thôn, chuyển dần lao động sản xuất nông nghiệp sang các ngành công nghiệp có quy mô được phát triển ở vùng nông thôn, chuyển dần lao động sản xuất nông nghiệp sang các ngành công nghiệp có quy mô được phát triển ở vùng nông thôn tránh gây sứ ép về lao động , việc làm và các vấn đề xã hội do tình trạng di cư vào các thành phố và trung tâm tạo nên.
- Đầu tư phát triển DN tạo ra sự năng động linh hoạt cho toàn bộ nền kinh tế,trong việc thích nghi với những thay đổi của thị trường trong nước và quốc tế.
Các DN có ưu thế là năng động, dễ thay đổi cơ cấu sản xuất , thích ứng nhanh với tình hình, đó là những yếu tố rất quan trọng trong kinh tế thị trường để đảm bảo khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Đầu tư phát triển DN còn đẩy nhanh quá trình hoà nhập của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới
- Đầu tư phát triển DN nhằm đảm bảo cho sự cạnh tranh trong nền kinh tế.
Cạnh tranh là sức sống là động lực và là một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường so với cơ chế kế hoạch hoá tập trung.Để cạnh tranh thì trên thị trường phải có nhiều chủ thể tham gia ,trong nền kinh tế thị trường tự do , các doanh nghiệp, tập đoàn lớn luôn có xu hướng bành trướng, thôn tính các doanh nghiệp nhỏ. Để tránh bị thôn tính trong điều kiện như vậy, các DN cũng có xu thế liên kết lại để trở thành các doanh nghiệp lớn hơn nhằm cạnh tranh trên thị trường. Kết quả là nền kinh tế chiếm đa số những chủ thể độc quyền do đó hoạt động kém hiệu quả và người tiêu dùng bị thiệt hại. Phát triển DN chính là để duy trì sự cạnh tranh cần thiết trong nền kinh tế thị trường, tránh những méo mó do độc quyền gây ra, duy trì được tính năng động và linh hoạt của các chủ thể trong một môi trường kinh doanh mà tính năng động và linh hoạt có vai trò quyết định cho sự sống còn của một doanh nghiệp.
II.1.2. Vi mô:
- Tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận:
Các DN luôn đặt mục tiêu lợi nhuận để xác định quy mô đầu tư của DN mình. Không chỉ là mong muốn có lợi nhuận mà họ còn mong muốn tiền của họ không ngừng tăng lên tức là quy mô lợi nhuận ngày càng được mở rộng.Hoạt động đầu tư của mỗi DN chính là hoạt động nhằm thực hiện chiến lược sản xuất kinh doanh luận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh của DN đó với mục tiêu đạt được lợi nhuận mà DN đề ra. Khi lợi nhuận càng cao thì lợi ích càng lớn và ngược lại.Doanh thu có lớn hay không lại phụ thuộc vào quá trình đầu tư của DN. Nếu đầu tư mang lại hiệu quả cao thì doanh thu sẽ nhiều .Như vậy đầu tư đã tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận.
- Tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của DN:
Ngày càng nhiều DN gia nhập vào thị trường, vì thế DN muốn tồn tại và đứng vững càng cần phải đầu tư vào các lĩnh vực thế mạnh nhằm nâng cao sức cạnh tranh. - Đầu tư tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm :
Đời sống ngày càng được nâng cao thì nhu cầu về sản phẩm chất lượng cao càng tăng. Vì thế DN càng cần phải đổi mới mẫu mã và chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với các DN khác, nhất là khi hàng nhập ngoại đang tràn lan trên thị trường.
- Đầu tư góp phần đổi mới công nghệ, trình độ khoa học kĩ thuật trong sản xuất sản phẩm của DN:
Với trình độ khoa học phát triển như vũ bão hiện nay thì việc đầu tư vào công nghệ là điều cần thiết để tránh rơi vào tình trạng lạc hậu, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đầu tư cho khoa học công nghệ, kĩ thuật cũng góp phần cho sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.- Đầu tư góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:DN đầu tư vào nhiều hoạt động nhằm tạo sự phát triển cũng không thể quên đàu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Bởi máy móc không thể thay thế con người. Con người là chủ đạo. Con người tạo máy móc, công nghệ. Đầu tư cho nguồn nhân lực là một trong những điều kiện đầu tiên cho sự phát triển của DN.
III. Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp:
III.1. Nguồn vốn đầu tư phát triển.
Vốn đầu tư là một nhân tố quan trọng trong hoạt động đầu tư. Đứng trên góc độ vĩ mô, nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài.
III.1.1. Nguồn vồn đầu tư trong nước :
Được hình thành từ nguồn tích lũy nội bộ của nền kinh tế. Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn nhà nước và nguồn vốn khu vực tư nhân.
a) Nguồn vốn nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Đây là nguồn vốn chiếm tỉ trọng lớn và có nghĩa quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển của Việt Nam trong thời gian qua.
- Nguồn vốn ngân sách nhà nước : đây là nguồn đầu tư chủ yếu, quyết định sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội . Là nền tảng xây dựng CNH-HĐH đất nước. Nhà nước của bất kì quốc gia nào cũng quan tâm đến hoạt động đầu tư này. Đặc biệt là các nước