Theo cam kết gia nhập WTO (World Trade Organization - Tổ chức Thương mại Quốc tế), doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam, đặc biệt là các nhà bán lẻ. Do đó, để có khả năng cạnh tranh với đối thủ, và tồn tại ngay trên “sân nhà”, doanh nghiệp nội địa buộc phải đẩy mạnh sản xuất kinh doanh hơn nữa. Với động thái này của các doanh nghiệp càng làm thị trường sôi động và đa dạng. Khi đó, người dân có nhiều lựa chọn và nhu cầu cũng dần tăng cao. Tuy nhiên, không phải ai cũng đủ năng lực tài chính để thỏa mãn được mọi nhu cầu tiêu dùng của mình, do đó, người dân thường tìm đến các tổ chức tài chính, chủ yếu là ngân hàng
Ngân hàng vào cuộc với nhiều gói hỗ trợ tiêu dùng rất hấp dẫn, điển hình là hình thức vay tiêu dùng tín chấp. Trước đây, ngân hàng không quan tâm nhiều đến khách hàng cá nhân, nhưng hiện nay ngân hàng đang phát triển nhiều loại hình cho vay tiêu dùng, vì các khoản vay này thường nhỏ hơn so với các khoản vay sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, nếu khoản vay của một cá nhân rơi vào tình trạng không thể hoàn trả, ngân hàng cũng không lo lắng nhiều bằng khoản vay của doanh nghiệp. Vì khoản vay nhỏ này không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất ít đến ngân hàng. Ngoài ra, xung quanh một cá nhân có rất nhiều mối quan hệ. Nhờ những mối quan hệ này vô hình tạo nên một kênh truyền thông tự nhiên và hiệu quả từ chính những người sử dụng dịch vụ của ngân hàng, do đó, càng đẩy mạnh hoạt động kinh doanh và nâng cao giá trị thương hiệu của ngân hàng hơn.
Tuy nhiên, vẫn có một số ngân hàng còn e ngại với khách hàng cá nhân. Mặc dù cá nhân vay số tiền không nhiều, và nhỏ hơn so với các khoản vay của doanh nghiệp, nhưng chủ yếu là vay tiêu dùng, nên các khoản vay này không “kinh tế”, không sinh lời. Ngoài ra, họ không có tài sản đảm bảo nhằm thế chấp hay cầm cố cho ngân hàng để chứng minh cho ngân hàng thấy họ có khả năng hoàn trả được nợ vay. Hơn nữa, do cạnh tranh cao, các ngân hàng thường có nhiều ưu đãi đặc biệt cho khách hàng cá nhân như không cần tài sản đảm bảo hay lãi suất,. Do đó, hoạt động cho vay này khá mạo hiểm, có thể ngân hàng sẽ không lấy lại vốn gốc nếu cá nhân không thực hiện trả nợ theo đúng hợp đồng tín dụng đã ký.
91 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 9482 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng Á Châu chi nhánh Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1. SỰ CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU
Theo cam kết gia nhập WTO (World Trade Organization - Tổ chức Thương mại Quốc tế), doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam, đặc biệt là các nhà bán lẻ. Do đó, để có khả năng cạnh tranh với đối thủ, và tồn tại ngay trên “sân nhà”, doanh nghiệp nội địa buộc phải đẩy mạnh sản xuất kinh doanh hơn nữa. Với động thái này của các doanh nghiệp càng làm thị trường sôi động và đa dạng. Khi đó, người dân có nhiều lựa chọn và nhu cầu cũng dần tăng cao. Tuy nhiên, không phải ai cũng đủ năng lực tài chính để thỏa mãn được mọi nhu cầu tiêu dùng của mình, do đó, người dân thường tìm đến các tổ chức tài chính, chủ yếu là ngân hàng
Ngân hàng vào cuộc với nhiều gói hỗ trợ tiêu dùng rất hấp dẫn, điển hình là hình thức vay tiêu dùng tín chấp. Trước đây, ngân hàng không quan tâm nhiều đến khách hàng cá nhân, nhưng hiện nay ngân hàng đang phát triển nhiều loại hình cho vay tiêu dùng, vì các khoản vay này thường nhỏ hơn so với các khoản vay sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, nếu khoản vay của một cá nhân rơi vào tình trạng không thể hoàn trả, ngân hàng cũng không lo lắng nhiều bằng khoản vay của doanh nghiệp. Vì khoản vay nhỏ này không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất ít đến ngân hàng. Ngoài ra, xung quanh một cá nhân có rất nhiều mối quan hệ. Nhờ những mối quan hệ này vô hình tạo nên một kênh truyền thông tự nhiên và hiệu quả từ chính những người sử dụng dịch vụ của ngân hàng, do đó, càng đẩy mạnh hoạt động kinh doanh và nâng cao giá trị thương hiệu của ngân hàng hơn.
Tuy nhiên, vẫn có một số ngân hàng còn e ngại với khách hàng cá nhân. Mặc dù cá nhân vay số tiền không nhiều, và nhỏ hơn so với các khoản vay của doanh nghiệp, nhưng chủ yếu là vay tiêu dùng, nên các khoản vay này không “kinh tế”, không sinh lời. Ngoài ra, họ không có tài sản đảm bảo nhằm thế chấp hay cầm cố cho ngân hàng để chứng minh cho ngân hàng thấy họ có khả năng hoàn trả được nợ vay. Hơn nữa, do cạnh tranh cao, các ngân hàng thường có nhiều ưu đãi đặc biệt cho khách hàng cá nhân như không cần tài sản đảm bảo hay lãi suất,... Do đó, hoạt động cho vay này khá mạo hiểm, có thể ngân hàng sẽ không lấy lại vốn gốc nếu cá nhân không thực hiện trả nợ theo đúng hợp đồng tín dụng đã ký.
Tuy vẫn tồn tại nhiều bất lợi trong các khoản vay tiêu dùng, nhưng hiện nay, các khoản vay này khá phổ biến, được xem là giải pháp tài chính hữu hiệu đối với nhiều bạn trẻ mới ra trường, mới kết hôn, nhiều cán bộ công nhân viên,… Do đó, em đã chọn đề tài “Phân tích hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng Á Châu – Chi nhánh Cần Thơ”, nhằm tìm hiểu đối với ngân hàng việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng có phải là một hướng đi đúng và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Mục tiêu chung
Phân tích hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng Á Châu chi nhánh Cần Thơ và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra, cần phải giải quyết các vấn đề sau:
Hệ thống hoá lý luận về hoạt động cho vay tiêu dùng.
Phân tích tình hình cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Á Châu Cần Thơ thông qua doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ cho vay và nợ xấu theo thời hạn cho vay và hình thức đảm bảo tín dụng.
Đánh giá hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Á Châu chi nhánh Cần Thơ.
Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hoạt động cho vay tiêu dùng ở ngân hàng Á Châu Cần Thơ.
1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Tình hình cho vay tại ngân hàng Á Châu Cần Thơ như thế nào?
Tình hình hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Á Châu Cần Thơ như thế nào?
Giải pháp nào để nâng cao của hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng Á Châu Cần Thơ?
1.4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1. Không gian
Số liệu thu thập được để thực hiện đề tài là từ các phòng ban của ngân hàng Á Châu Cần Thơ.
1.4.2. Thời gian
Đề tài sử dụng số liệu trong thời gian ba năm 2007-2009 và sáu tháng đầu năm 2010.
1.4.3. Đối tượng nghiên cứu
Do lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng Á Châu Cần Thơ phong phú và đa dạng, đồng thời nội dung đề tài rộng và có nhiều vấn đề, kết hợp thời gian nghiên cứu có hạn, nên em chỉ đi sâu nghiên cứu hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng Á Châu Cần Thơ trong thời gian gần đây.
1.5. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
– Nguyễn Đỗ Thùy Uyên (2008), Luận văn tốt nghiệp “Giải pháp phát triển sản phẩm cho vay tiêu dùng tại ngân hàn thương mại cổ phần Á Châu - Chi nhánh Cần Thơ”. Giáo viên hướng dẫn TS. Lê Khương Ninh, Đại học Cần Thơ.
Bài viết phân tích sơ lược về tình hình cho vay tiêu dùng của ngân hàng Á Châu Cần Thơ, qua đó phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Từ đó đề ra các biện pháp nhằm phát triển sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng Á Châu Cần Thơ hơn nữa.
– Bài viết “Vay tiêu dùng tín chấp: Giải pháp tài chính của giới trẻ”, đăng trên website Bài viết chỉ rõ những ưu điểm của sản phẩm cho vay tiêu dùng, sự thiết thực của nó trong đời sống cá nhân và hộ gia đình.
Đứng trên lập trường của giới trẻ, các sản phẩm cho vay tiêu dùng là một giải pháp tốt nhất giúp mọi người có thể thực hiện được mọi dự định tài chính của mình một cách nhanh chóng, đặc biệt không cần đợi khoảng thời gian dài để tích lũy đủ tiền. Tuy các sản phẩm cho vay tiêu dùng mang lại lợi ích lớn cho khách hàng, nhưng riêng ngân hàng sẽ đạt được những gì từ hoạt động cho vay này? Do đó, em đã chọn đề tài này nhằm tìm hiểu vấn đề trên.
( ( (
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. PHƯƠNG PHÁP LUẬN
2.1.1. Một số khái niệm liên quan đến tín dụng
2.1.1.1. Tín dụng
( Tín dụng xuất phát từ tiếng Latinh là Creditium, từ tiếng Anh là Credit, nghĩa là lòng tin, sự tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng được diễn giải theo ngôn ngữ tiếng Việt là sự vay mượn.
( Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng, sau đó hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn. Khái niệm tín dụng trên đây được thể hiện ba mặt cơ bản sau đây:
+ Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định từ người này sang người khác.
+ Sự chuyển giao mang tính chất tạm thời.
+ Khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu, phải kèm theo một lượng giá trị dôi thêm gọi lợi tức.
Một quan hệ được gọi là tín dụng phải đầy đủ cả ba mặt.
( Tín dụng là một hoạt động ra đời và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hóa. Tín dụng là mối quan hệ kinh tế thể hiện dưới hình thức vay mượn và hoàn trả.
Ngày nay, tín dụng được hiểu theo những định nghĩa sau:
+ Tín dụng là quan hệ kinh tế được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật, trong đó người đi vay phải trả cho người cho vay cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.
+ Tín dụng là phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hóa.
+ Tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa hai bên, trong đó một bên (trái chủ - người cho vay) cấp tiền, hàng hóa, dịch vụ, chứng khoán,… dựa vào lời hứa thanh toán trong tương lai của bên kia (thụ trái – người đi vay).
Như vậy, “Tín dụng” được diễn đạt bằng nhiều lời lẽ khác nhau, nhưng chúng cùng chỉ những hành động thống nhất: Hoạt động cho vay và đi vay và quan hệ này được ràng buộc trên cơ sở pháp luật hiện hành.
2.1.1.2. Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội bao gồm doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội và cơ quan nhà nước.
Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng, ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ như: cho vay, chiết khấu, bão lãnh, bao thanh toán và các nghiệp vụ tín dụng khác.
2.1.1.3. Cho vay
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. (Theo Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001).
2.1.1.4. Cho vay tiêu dùng
Là một hình thức cấp tín dụng nhằm hỗ trợ cho nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng hàng ngày của cá nhân và hộ gia đình, như trang trải cho nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình, xe cộ, các nhu cầu giáo dục, y tế và du lịch,… Đây nhà những nhu cầu thiết yếu của cá nhân và hộ gia đình, những hoạt động này không sinh lợi.
2.1.1.5. Doanh số cho vay
Là chỉ tiêu phản ánh tất cả các khoản tín dụng mà ngân hàng đã phát vay cho khách hàng trong một thời gian nhất định, không kể đến món vay đó thu hồi về được hay chưa. Doanh số cho vay thường xác định theo tháng, quí, năm.
2.1.1.6. Doanh số thu nợ
Là chỉ tiêu phản ánh tất cả các món nợ mà ngân hàng đã thu về từ các khoản cho vay đã đến hạn của ngân hàng kể cả năm nay và những năm trước đó.
2.1.1.7. Dư nợ cho vay
Dư nợ cho vay là chỉ tiêu phản ánh số nợ mà ngân hàng đã cho vay và chưa thu hồi về được vào một thời điểm nhất định.
Để xác định đuợc dư nợ cho vay, ngân hàng sẽ so sánh giữa hai chỉ tiêu doanh số cho vay và doanh số thu nợ.
2.1.1.8. Nợ quá hạn và Nợ xấu
Chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ khi đến hạn nhưng khách hàng không trả được cho ngân hàng mà không có nguyên nhân chính đáng thì ngân hàng sẽ chuyển từ tài khoản dư nợ sang tài khoản quản lý khác gọi là nợ quá hạn. Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh chất lượng của nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng.
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định sửa đổi bổ sung số 18/2007/QĐ-NHNN, nợ quá hạn được phân chia thành 5 nhóm, bao gồm: nhóm 1- nợ đủ tiêu chuẩn; nhóm 2 - nợ cần chú ý; nhóm 3 - nợ dưới tiêu chuẩn; nhóm 4- nợ nghi ngờ và nhóm 5 - nợ có khả năng mất vốn.
Tuy nhiên, nợ nhóm 1 có thời hạn quá hạn dưới 10 ngày, nên mức độ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng không cao. Vì vậy, ngân hàng hay các tổ chức đánh giá tín dụng thường bỏ qua nợ nhóm 1, chỉ xét “Nợ quá hạn” từ nợ nhóm 2 đến nhóm 5, và đối với “Nợ xấu” thì từ nhóm 3 đến nhóm 5.
2.1.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
– Quy mô hợp đồng vay nhỏ: Do mục đích vay là tiêu dùng, nên số tiền sử dụng không lớn. Bên cạnh đó, khoản vay này sử dụng để mua sắm, nên không sinh lời, vì vậy để đảm bảo người vay có khả năng hoàn trả được, ngân hàng chỉ cho vay với số tiền hạn mức, nhỏ hơn so với khoản vay của doanh nghiệp.
– Số lượng khách hàng rất lớn: Mỗi thành viên trong mỗi gia đình sẽ có những mục đích tiêu dùng riêng và thường khác nhau, do đó lượng người tiêu dùng rất đông. Vì vậy, các khoản vay tiêu dùng rất đa dạng và phong phú.
– Rủi ro tín dụng cao nhất.
+ Thu nhập của người vay chính là căn cứ để ngân hàng xét cho vay và thu nợ. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, người vay có thể bị thất nghiệp, do đó ngân hàng sẽ gặp nhiều rủi ro hơn trong việc thu hồi nợ.
+ Do người vay là cá nhân, thường là công nhân viên, giới trẻ mới ra trường đi làm, hay mới lập gia đình,… nên không có tài sản đảm bảo hay thế chấp. Vì vậy rủi ro nợ quá hạn và mất khả năng hoàn trả rất cao và cao nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng.
– Nhu cầu vay tiêu dùng có tính nhạy cảm và phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế: Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng tốt và ổn định, người dân cảm thấy lạc quan về tương lai, họ sẽ thoải mái mua sắm, vì vậy nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, tâm lý chung của cá nhân là lo lắng về cuộc sống tương lai, lo sợ tình trạng thất nghiệp xảy ra, nên họ có khuynh hướng tiết kiệm hơn để tích lũy cho tương lai, do đó việc tiêu dùng sẽ phải hạn chế tối đa, đồng thời hoạt động vay mượn ngân hàng giảm đi rất nhiều.
– Người tiêu dùng kém nhạy cảm với lãi suất: Họ thường quan tâm món vay đó có thỏa mãn được nhu cầu của họ không, và số tiền phải trả trong mỗi kỳ là bao nhiêu, hơn là lãi suất mà họ phải chịu, mặc dù lãi suất là yếu tố biểu hiện chi phí họ phải bỏ ra để có được số tiền vay. Ngoài ra, do đây là những món vay tiêu dùng, khoản vay thấp, và không vì mục đích kinh doanh, nên người vay thường ít quan tâm đến chi phí phải trả. Hơn nữa, đối tượng vay tiêu dung thường là những người lao động bình thường, công nhân viên chức,… nên họ ít am hiểu về các lĩnh vực ngân hàng như lãi suất,…
– Hiệu quả của vay tiêu dùng phụ thuộc rất nhiều vào từng cá nhân.
+ Yếu tố chủ quan: Tư cách của khách hàng như cam kết trả nợ, độ tín nhiệm của cá nhân đi vay,… là một yếu tố định tính rất khó xác định, tuy nhiên nó lại rất quan trọng, có tính quyết định cho sự hoàn trả của khoản vay.
+ Yếu tố khách quan: Tuy nhiên, rủi ro không trả nợ cho ngân hàng không chỉ xuất phát do chủ quan từ phía người đi vay, nó còn chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp từ các yếu tố khách quan như rủi ro về mất việc làm, bệnh tật, tai nạn, chết, các sự cố xảy ra trong gia đình,… Nhưng vì số lượng khách hàng rất nhiều nên những rủi ro này được phân tán, không tập trung vào một đầu mối, vì vậy giảm được những tổn thất lớn cho ngân hàng.
2.1.3. Phân loại cho vay tiêu dùng
2.1.3.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Tín dụng tiêu dùng ngắn hạn: là khoản vay có thời hạn dưới 12 tháng. Khoản vay này thường được sử dụng cho các trường hợp có tính cấp bách, nhất thời như khám chữa bệnh, học tập hay đi du lịch,…
Tín dụng tiêu dùng trung hạn: thời hạn vay từ 12 đến dưới 60 tháng. Mục đích sử dụng chủ yếu là sinh hoạt tiêu dùng hằng ngày.
Tín dụng tiêu dùng dài hạn: thời hạn vay từ 60 tháng trở lên. Số tiền vay trong thời hạn này thường được sử dụng để mua nhà ở, đất ở, mua xe và thiết bị gia dụng có giá trị lớn.
2.1.3.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay
Cho vay tiêu dùng cư trú: là khoản vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà cửa của khách hàng cá nhân hoặc hộ gia đình.
Cho vay tiêu dùng phi cư trú: là khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua xe, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch,…
2.1.3.3. Căn cứ vào phương thức cho vay
Cho vay trả góp: là khoản cho vay mà người vay phải trả nợ vay (cả tiền gốc và lãi) cho ngân hàng thành nhiều kỳ liên tiếp như đã thỏa thuận (thường là tháng hay quý).
Cho vay trả một lần: là khoảng cho vay mà người đi vay chỉ thanh toán một lần với ngân hàng (cả tiền gốc và lãi) vào lúc đáo hạn hợp đồng theo thỏa thuận của hai bên. Thông thường đây là những khoản vay có qui mô vốn nhỏ, đi kèm với thời gian ngắn và sử dụng cho những mục đích chi trả cho những chuyến đi nghỉ, tiền viện phí,…
2.1.3.4. Căn cứ vào hình thức cho vay
Cho vay tiêu dùng trực tiếp: là việc ngân hàng thực hiện phát vay trực tiếp cho người đi vay một số tiền mặt nhất định nhằm mục đích tiêu dùng. Và định kỳ người vay phải trả một số tiền theo quy định cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp: là việc ngân hàng thay người vay trả tiền cho nhà sản xuất hay nhà cung ứng bán hàng hóa. Đây là hình thức phối hợp giữa ngân hàng và các tổ chức bán lẻ hàng hóa. Sau đó, định kỳ ngân hàng sẽ thực hiện thu nợ từ người vay.
2.1.3.5. Căn cứ vào hình thức đảm bảo
Cho vay có tài sản đảm bảo (Thế chấp): là phương thức cho vay mà khách hàng có tài sản để thế chấp hoặc cầm cố nhằm đảm bảo cho mức độ an toàn cho khoản vay của họ.
Cho vay không có tài sản đảm bảo (Tín chấp): là phương thức cho vay mà khách hàng không có tài sản để thế chấp hoặc cầm cố để đảm bảo cho mức độ an toàn cho khoản vay của họ.
2.1.4. Vai trò của cho vay tiêu dùng
Việc cho vay tiêu dùng của ngân hàng có tác động, và ảnh hưởng rất lớn đối với bản thân ngân hàng, cũng như đối với người tiêu dùng và nền kinh tế.
2.1.4.1. Đối với ngân hàng
Tác động tích cực: Giúp ngân hàng thiết lập và mở rộng nhiều mối quan hệ mật thiết với khách hàng cá nhân cũng như các doanh nghiệp. Từ đó mở rộng thị phần phát triển dịch vụ ngân hàng và tăng cường khả năng huy động vốn, tiền gửi từ dân cư; từ đó tạo điều kiện đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh, góp phần nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
Tác động tiêu cực: Cho vay tiêu dùng có rủi ro tín dụng cao nên cần có biện pháp để khắc phục.
2.1.4.2. Đối với người tiêu dùng
Tác động tích cực: Thông qua vay tiêu dùng, người tiêu dùng được hưởng các tiện ích trước khi tích lũy đủ tiền, nhờ đó góp phần nâng cao mức sống, tạo niềm hưng phấn, tích cực lao động sản xuất. Đặc biệt đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu có tính cấp bách như giáo dục và y tế. Đồng thời, khuyến khích việc tăng thu nhập và tiết kiệm cho tiêu để trả nợ vay.
Tác động tiêu cực: Nếu lạm dụng việc đi vay để tiêu dùng vượt quá mức cho phép, mà không cố gắng làm việc và tiết kiệm để trả nợ, sẽ ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng. Đồng thời, ảnh hưởng đến độ tín nhiệm của chính người vay, làm họ khó khăn hơn trong việc vay mượn lần sau.
2.1.4.3. Đối với nền kinh tế
Tác động tích cực: Phát triển vay tiêu dùng giúp tài trợ cho các chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ trong nước, góp phần đẩy mạnh kích cầu nội địa, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tác động tiêu cực: Vay tiêu dùng nếu không được sử dụng đúng mục đích kích thích tiêu dung nội địa, khách hang vay tiêu dung chỉ để mua sắm hàng hóa ngoại nhập, đi du lịch nước ngoài,… vừa không có tác dụng kích cầu trong nước, còn làm giảm đi khả năng tiết kiệm.
2.1.5. Một số chỉ tiêu đánh giá hoạt động tín dụng
2.1.5.1. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn vay thông qua tốc độ luân chuyển của nó, thường được đánh giá trong thời gian là một năm. Số vòng luân chuyển trong một năm càng lớn thì đồng vốn quay càng nhanh, đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng.
Công thức tính:
Dư nợ bình quân là số dư nợ trung bình của ngân hàng trong một năm được tính bằng công thức:
2.1.5.2. Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động
Chỉ tiêu này xác định hiệu quả đầu tư của một đồng vốn huy động vào việc cho vay. Nó giúp nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với nguồn vốn huy động.
2.1.5.3. Tỷ lệ dư nợ trên tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng đầu tư vào cho vay của ngân hàng so với tổng nguồn vốn, hay dư nợ cho vay chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng nguồn vốn sử dụng của ngân hàng.
2.1.5.4. Hệ số thu nợ
Hệ số này thể hiện mối quan hệ giữa doanh số cho vay và doanh số thu nợ. Chỉ số này nói lên hiệu quả thu hồi nợ của ngân hàng cao hay thấp. Ngân hàng có hệ số thu nợ gần bằng 1, tức là công tác thu hồi nợ của ngân hàng khá chất lượng.
2.1.5.5. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng nghiệp vụ tín dụng, cũng như khả năng thu hồi nợ của ngân hàng, giúp ta đánh giá chính xác thực trạng rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu càng lớn thì chất lượng nghiệp vụ tín dụng càng kém, rủi ro tín dụng càng cao và ngược lại.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập số liệu thông qua hồ sơ lưu trữ, số liệu thực tế phát sinh tại ngân hàng Á Châu Cần Thơ, cụ thể là các Báo cáo tài chính của ngân hàng như: Bảng cân đối kế toán, Bảng kết quả hoạt động kinh doanh, cơ cấu nguồn vốn,.... trong ba năm 2007-2009 và 6 tháng đầu năm 2010.
Kết hợp với việc quan sát, phỏng vấn trực tiếp các cô chú anh chị trong Ngân hàng để có những hướng dẫn rõ ràng và cụ thể.
Bên cạnh đó, còn thu thập thêm những thông tin cần thiết từ việc tham khảo tài liệu, giáo trình, báo chí, Internet và các tài liệu khác có liên quan…
2.2.2. Phương pháp phân tích
2.2.2.1. Phương pháp so sánh
Dựa vào số liệu và dùng các chỉ số tương đối, tuyệt đối để so sánh trong phân tích các chỉ tiêu kinh tế tài chính. Phương pháp so sánh bao gồm so sánh tương đối và tuyệt đối.
( Phương pháp so sánh bằng số tuyệt đối: Là hiệu số giữa giá trị của kỳ phân tích và kỳ gốc của chỉ tiêu kinh tế.
Trong đó. Q0: giá trị của chỉ tiêu năm trước.
Q1: giá trị của chỉ tiêu năm sau.
(Q: phần chênh lệch tăng, giảm của các chỉ tiêu kinh tế.
Phương pháp này sử