Hiện nay, trước tình hình kinh tếnước ta đang có sựhội nhập với nền
kinh tếthếgiới thì sựcạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng trởnên gay
gắt. Đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược và cách thức kinh doanh
linh hoạt đểnhằm đem lại hiệu quảkinh doanh cho mình.Vì vậy việc nắm
bắt nhu cầu, thu thập và xửlý các thông tin đểphân tích kết quảhoạt động
sản xuất kinh doanh là rất quan trọng. Từviệc phân tích kết quảsản xuất
kinh doanh giúp doanh nghiệp tìm ra những điểm mạnh và những điểm còn
hạn chế đểtừ đó định hướng ra các chiến lược, những quyết định đầu tư
cho phù hợp với nguồn lực của công ty, hạn chế được những rủi ro trong đầu
tưkhi không nắm bắt được thông tin.
Để giúp doanh nghiệp thấy rõ được thực trạng sản xuất kinh doanh
cũng nhưbiện pháp đểcải thiện và nâng cao kết quảsản xuất kinh doanh
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đềtài: “Phân tích kết quả sản xuất kinh
doanh của công ty cổphần MISA”.
76 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5510 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần MISA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: “Phân tích kết quả sản xuất
kinh doanh của công ty cổ phần
MISA”.
2
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, trước tình hình kinh tế nước ta đang có sự hội nhập với nền
kinh tế thế giới thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng trở nên gay
gắt. Đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược và cách thức kinh doanh
linh hoạt để nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cho mình.Vì vậy việc nắm
bắt nhu cầu, thu thập và xử lý các thông tin để phân tích kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh là rất quan trọng. Từ việc phân tích kết quả sản xuất
kinh doanh giúp doanh nghiệp tìm ra những điểm mạnh và những điểm còn
hạn chế để từ đó định hướng ra các chiến lược, những quyết định đầu tư …
cho phù hợp với nguồn lực của công ty, hạn chế được những rủi ro trong đầu
tư khi không nắm bắt được thông tin.
Để giúp doanh nghiệp thấy rõ được thực trạng sản xuất kinh doanh
cũng như biện pháp để cải thiện và nâng cao kết quả sản xuất kinh doanh
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Phân tích kết quả sản xuất kinh
doanh của công ty cổ phần MISA”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của công ty Cổ phần
MISA để đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của công ty.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Khái quát một số vấn đề lý luận về hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần
MISA
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các yếu
tố đến kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian qua.
3
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kết quả sản xuất kinh
doanh cho công ty trong thời gian tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Cổ phần MISA
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Địa điểm: Công ty Cổ phần MISA
- Thời gian: Từ ngày 10/1/2009 – 23/5/2009
4
PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 Các khái niệm cơ bản
2.1.1 Khái niệm về doanh thu và các loại doanh thu
2.1.1.1 Khái niệm doanh thu
Doanh thu là khoản tiền thu được từ hoạt động bán hàng, hoạt động
tài chính hoặc cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp.
2.1.1.2 Các loại doanh thu
a. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là số tiền thu được từ hoạt
động bán hàng và cung cấp dịch vụ.
b. Doanh thu hoạt động tài chính
Doanh thu hoạt động tài chính là khoản tiền thu được từ các hoạt động
tài chính của doanh nghiệp.
2.1.2 Khái niệm chi phí và các loại chi phí
2.1.2.1 Khái niệm
Sản xuất của cải vật chất là hoạt động cơ bản của con người là điều
kiện tất yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của con người. Trong nền
kinh tế thị trường việc sản xuất ra các sản phẩm nhằm mục đích đáp ứng nhu
cầu của thị trường đồng thời đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đó là
những quá trình mà mỗi doanh nghiệp bỏ ra một chi phí nhất định, là chi phí
về đời sống: tiền lương, tiền công, BHXH ngoài ra còn có các loại chi phí
khác như chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí NVL, chi phí quản lý…, mọi chi
phí bỏ ra đều được thể hiện giá trị bằng thước đo tiền tệ.
“Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao
phí có liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh mà doanh
nghiệp bỏ ra trong một thời kỳ nhất định”.
5
Trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, Ngoài hoạt động sản xuất
kinh doanh còn có những hoạt động khác không có tính chất sản xuất như:
Bán hàng, quản lý các hoạt động mang tính chất sự nghiệp. Chi phí sản xuất
kinh doanh phát sinh thường xuyên, hàng ngày, gắn liền với từng vị trí sản
xuất, từng sản phẩm và hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc tính toán, tổng
hợp chi phí sản xuất kinh doanh cần được tiến hành trong thời gian nhất
định, có thể là quý tháng, năm.Các chi phí này cuối kỳ sẽ được bù đắp bằng
doanh thu kinh doanh trong kỳ đó của doanh nghiệp.
2.1.2.2 Phân loại chi phí
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm nhiều khoản khác
nhau cả về nội dung, tính chất, công dụng, mục đích… trong từng doanh
nghiệp sản xuất. Để thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán cần phải
tiến hành phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo các tiêu thức khác nhau
nhằm nâng cao tính chi tiết của thông tin chi phí, phục vụ đắc lực cho công
tác quản lý, lập kế hoạch đồng thời tạo cơ sở tin chậy cho việc phấn đấu
giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế của chi phí. Dưới đây là một số cách
phân loại chủ yếu:
a. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung tính chất kinh
tế của chi phí
Cách phân loại này dựa trên nguyên tắc những chi phí có cùng nội
dung kinh tế được xếp vào một loại yếu tố chi phí, không kể cả chi phí đó
phát sinh ở lĩnh vực hoạt động nào, địa điểm nào và dùng vào mục đích gì
trong sản xuất kinh doanh. Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ
được chia làm các yếu tố chi phí sau:
- Chi phí nguyên vật liệu
- Chi phí nhân công
- Chi phí khấu hao TSCĐ
6
- Chi phí dịch vụ mua ngoài
- Chi phí khác bằng tiền
Cách phân loại này cho biết chi phí sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp gồm những nội dung chi phí nào, tỷ trọng từng loại chi phí / ổng số,
làm cơ sở cho việc lập kế hoạch như kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ
lương,… Tuy nhiên cách nhìn này không cho biết CPSX / ∑ chi phí của
doanh nghiệp là bao nhiêu.
b. Phân loại theo mục đích và công dụng của chi phí
Cách này căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thnh sản phẩm dựa
vào mục đích, công dụng của chi phí và mức phân bố chi phí cho từng đối
tượng (không phân biệt chi phí có nội dung như thế nào). Toàn bộ chi phí
sản xuất kinh doanh phát sinh trong kỳ được chia thành các khoản mục:
- Chi phí ngyên vật liệu trực tiếp: Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên
vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào sản xuất chế
tạo ra sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm tiền lương, phụ cấp lương, trích
BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh.
- Chi phí sản xuất chung: Những chi phí phát sinh trong phạm vi phân
xưởng sản xuất (trừ chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp).
+ Chi phí nhân viên phân xưởng.
+ Chi phí vật liệu và CCDC sản xuất.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài.
+ Chi phí bằng tiền khác
Ba khoản mục chi phí trên được tính vào giá trị sản xuất, ngoài ra khi
tính giá thành toàn bộ còn gồm: chi phí bán hàng, chi phí QLDN. Phân loại
theo cách này rất thuận tiện cho việc tập hợp chi phí và tính giá thành sản
7
phẩm, phục vụ yêu cầu quản lý chi phí sản xuất kinh doanh theo định mức,
cung cấp thông tin cho việc lập BCTC, giúp việc đánh giá tình hình thực
hiện kế hoạch giá thành sản xuất, phân tích ảnh hưởng của từng khoản mục
chi phí đến giá thành sản xuất cũng như cho thấy vị trí của CPSX trong quá
trình SXKD của doanh nghiệp.
c. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mối quan hệ với khối
lượng sản phẩm, công việc lao vụ sản xuất trong kỳ
- Chi phí cố định (định phí): là những chi phí không thay đổi về tổng
số so với khối lượng công việc hoàn thành trong một phạm vi nhất định.
- Chi phí biến đổi (biến phí): là những chi phí thay đổi về tổng số, về
tỷ lệ so với khối lượng công việc hoàn thành.
Phân loại theo cách này thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra
chi phí, xác định điểm hòa vốn, phân tích tình hình tiết kiệm chi phí sản xuất
kinh doanh. Đồng thời làm căn cứ để đề ra biện pháp thích hợp hạ thấp chi
phí sản xuất kinh doanh trên một đơn vị sản phẩm cũng như xác định
phương án đầu tư thích hợp.
d. Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí sản
xuất và mối quan hệ giữa đối tượng chịu chi phí
- Chi phí trực tiếp: là những CPSX quan hệ trực tiếp cho sản phẩm
hoặc đối tượng chụ chi phí.
- Chi phí gián tiếp: là những CPSX có quan hệ đến sản xuất ra nhiều
loại sản phẩm, không phân định được cho từng đối tượng cho nên phải phân
bổ theo đối tượng nhất định.
Phân loại theo cách này có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp
tập hợp chi phí và phân bổ chi phí một cách hợp lý.
Nói chung việc phân loại chi phí theo tiêu thức nào là phải phù hợp
với đặc điểm và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp, là cơ sở cho việc lập kế
8
hoạch, phân tích kiểm tra chi phí và xác định trọng điểm quản lý chi phí
nhằm góp phần tiết kiệm chi phí, nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
2.1.2.3 Phạm vi chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Nền kinh tế thị trường song song với việc mở rộng môi trường kinh
doanh cho các doanh nghiệp có nghĩa các doanh nghiệp phải cạnh tranh với
nhau gay gắt. Có thể nói cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một cuộc
chạy đua khốc liệt trên một tuyến đường với những biển báo và luật lệ luôn
thay đổi, không có tuyến đích và không có người chiến thắng vĩnh cửu. Mục
tiêu của doanh nghiệp trong cuộc chạy đua đó đều là lợi nhuận. Nhưng lợi
nhuận hạch toán trên sổ sách để giải trình với Bộ tài chính cao cũng đồng
nghĩa với việc phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cao, mà các doanh
nghiệp thì luôn luôn không muốn tiền chạy ra khỏi túi của mình. Cho nên xu
hướng chung của các doanh nghiệp là muốn đội chi phí sản xuất kinh doanh
trên sổ sách hạch toán cao hơn. Nhà nước đã đưa ra các quy định trong luật
thuế TNDN phần nào phản ánh đúng bản chất kinh tế tương đối đầy đủ các
chi phí hợp lý phát sinh trong quá trình hoạt động SXKD của doanh nghiệp.
- Chi phí sản xuất kinh doanh chỉ bao gồm những khoản chi phí trực
tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp, mà
không bao gồm những khoản chi phí phục vụ cho hoạt động riêng biệt khác
của doanh nghiệp.
- Những khoản chi phí có nguồn bù đắp riêng không được tính vào chi
phí sản xuất kinh doanh như chi phí đầu tư dài hạn, chi phí phục vụ cho các
hoạt động tổ chức đoàn thể.
- Có một số khoản chi phí về thực chất không phải là chi phí sản xuất
kinh doanh nhưng do yêu cầu của chế độ hạch toán kinh tế và chế độ quản lý
hiện hành cho phép hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh như: chi phí
phòng chày, chữa cháy, chi phí phòng chống bão lụt.
9
- Có một số khoản chi phí về thực chất là chi phí sản xuất kinh doanh
nhưng phát sinh do lỗi chủ quan của doanh nghiệp thì không được hạch toán
vào chi phí sản xuất kinh doanh như tiền phạt do vi phạm hợp đồng…
Xác định đúng phạm vi chi phí sản xuất kinh doanh mới hạch toán
đầy đủ, đúng đắn hợp lý các khoản chi phí, qua đó phản ánh chính xác hiệu
quả hoạt động của SXKD của doanh nghiệp, cơ sở để Nhà nước quản lý đề
ra quyết định chính xác, xác định đúng nguồn thu cho NSNN.
2.1.3 Khái niệm về hoạt động sản xuất kinh doanh
Trong thời đại ngày nay, hoạt động sản xuất tạo ra của cải vật chất và
dịch vụ luôn gắn liền với cuộc sống của con người, công việc sản xuất thuận
lợi khi các sản phẩm tạo ra được thị trường chấp nhận tức là đồng ý sử dụng
sản phẩm đó. Để được như vậy thì các chủ thể tiến hành sản xuất phải có
khă năng kinh doanh.“ Nếu loại bỏ các phần khác nhau nói về phương tiện,
phương thức, kết quả cụ thể của hoạt động kinh doanh thì có thể hiểu kinh
doanh là các hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lời của chủ thể kinh
doanh trên thị trường”1
Hoạt động kinh doanh có đặc điểm:
+ Do một chủ thể thực hiện và gọi là chủ thể kinh doanh, chủ thể kinh
doanh có thể là cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp
+ Kinh doanh phải gắn với thị trường, các chủ thể kinh doanh có mối
quan hệ mật thiết với nhau, đó là quan hệ với các bạn hàng, với chủ thể cung
cấp đầu vào, với khách hàng, với đối thủ cạnh tranh, với Nhà nước. Các mối
quan hệ này giúp cho các chủ thể kinh doanh duy trì hoạt động kinh doanh
đưa doanh nghiệp của mình này càng phát triển.
1
Giáo trình Lý thuyết quản trị doanh nghiệp. TS.Nguyễn Thị Hồng Thuỷ và PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc
Huyền. NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội- 1998, trang 5
10
+ Kinh doanh phải có sự vận động của đồng vốn: Vốn là yếu tố quyết
định cho công việc kinh doanh, không có vốn thì không thể có hoạt động
kinh doanh. Chủ thể kinh doanh sử dụng vốn mua nguyên liệu, thiết bị sản
xuất, thuê lao động...
+ Mục đích chủ yếu của hoạt động kinh doanh là lợi nhuận.
2.2 Bản chất và chức năng của quá trình phân tích kết quả SXKD của
doanh nghiệp
2.2.1 Bản chất của phân tích kết quả hoạt động SXKD
Thực chất khái niệm hiệu quả hoạt động SXKD là biểu hiện mặt chất
lượng của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn
lực (nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, lao động và đồng vốn) để đạt được
mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động SXKD của doanh nghiệp là mục tiêu
tối đa hoá lợi nhuận.
Để hiểu rõ bản chất của hiệu quả hoạt động SXKD chúng ta có thể dựa
vào việc phân biệt hai khái niệm kết quả và hiệu quả2:
+ Kết quả của hoạt động SXKD là những gì mà doanh nghiệp đạt được
sau một quá trình SXKD nhất định, kết quả là mục tiêu cần thiết của mỗi
doanh nghiệp. Kết quả hoạt động SXKD có thể là những đại lượng cụ thể có
thể định lượng cân đong đo đếm được cũng có thể là những đại lượng chỉ
phản ánh được mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như thương
hiệu, uy tín, sự tín nhiệm của khách hàng về chất lượng sản phẩm. Chất
lượng bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp.
+ Trong khái niệm hiệu quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp đã sử
dụng cả hai chỉ tiêu là kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để có được kết quả
đó (cả trong lý thuyết và thực tế thì hai đại lượng này có thể được xác định
2
Đoạn này được tóm tắt từ Giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp trong các doanh nghiệp, GS.TS. Ngô
Đình Giao. NXB Khoa học kỹ thuât, Hà Nội- 1997, trang 409.
11
bằng đơn vị giá trị hay hiện vật) nhưng nếu sử dụng đơn vị hiện vật thì khó
khăn hơn vì trạng thái hay đơn vị tính của đầu vào và đầu ra là khác nhau
còn sử dụng đơn vị giá trị sẽ luôn đưa được các đại lượng khác nhau về cùng
một đơn vị. Trong thực tế người ta sử dụng hiệu quả hoạt động SXKD là
mục tiêu cuối cùng của hoạt động sản xuất cũng có những trường hợp sử
dụng nó như là một công cụ để đo lường khả năng đạt đến mục tiêu đã đặt
ra.
2.2.2 Chức năng của phân tích kết quả hoạt động SXKD
Sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, con người thường xuyên phải
đánh giá kết quả từ đó để rút ra những sai lầm, thiếu sót, tìm ra những
nguyên nhân ảnh hưởng tới kết quả, vạch rõ tiềm năng chưa được sử dụng
và đề ra các biện pháp khắc phục, xử lý kịp thời để không ngừng nâng cao
kết quả sản xuất kinh doanh.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là một chỉ tiêu tổng hợp chịu
tác động của nhiều nhân tố. Mỗi biến động của từng nhân tố có thể xác định
xu hướng và mức độ ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
là cụ thể hoá bản chất kết quả sản xuất kinh của doanh nghiệp.
Có nhiều quan điểm khác nhau khi bàn về chức năng của phân tích
chức năng của kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng chung nhất thì
phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có 3 chức năng cơ bản sau:
- Chức năng kiểm tra
- Chức năng quản trị
- Chức năng dự báo
*Chức năng kiểm tra
Kiểm tra là thông qua phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh mà quản lý sử dụng sao cho hợp lý. Thể hiện qua các giai đoạn sau.
12
+ Kiểm tra quá trình sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản
xuất như: Nguyên vật liệu, lao động, …
Kiểm tra quá trình sản xuất sản phẩm: Như năng suất, chất lượng sản
phẩm, chất lượng lao động.
+ Kiểm tra hoạt động ngoài sản xuất như: thiết lập và sử dụng nguồn
tài chính, các hoạt động khác.
* Chức năng quản trị
Các doanh nghiệp muốn đạt được kết quả cao trong quá trình sản xuất
kinh doanh đều cần phải xây dựng cho mình phương hướng, mục tiêu đầu tư
và biện pháp sử dụng các nguồn lực trong doanh nghiệp của mình.
Mặt khác mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nằm
trong mối liên hoàn với nhau. Do đó chỉ có thể tiến hành phân tích các hoạt
động sản xuất kinh doanh một cách toàn diện mới giúp được doanh nghiệp
đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong trạng
thái thực của mình. Từ đó đưa ra một cách tổng quát các mục tiêu đồng thời
phân tích sâu sắc hơn các nhân tố tác động đến các mục tiêu đó.
*Chức năng dự báo
Thông qua việc phân tích kết quả kinh doanh có thể dự báo về xu
hướng phát triển của doanh nghiệp. Mọi tài liệu phục vụ cho việc phân tích
kinh doanh đều rất quan trọng cho việc dự báo về tương lai của doanh
nghiệp. Đây là thông tin quan trọng trong việc xây dượng các chiến lược
kinh doanh ngoài ra việc phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
còn dự báo về xu hướng, phạm vi, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến
hoạt động sản xuất kinh doanh
Như vậy cả 3 chức năng trên đều thực hiện cùng một lúc thông qua
quá trình phân tích, các chức năng này có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Vì
13
vậy việc thực hiện tốt chức năng này sẽ tạo điều kiện tốt cho các chức năng
khác và ngược lại.
2.3 Vị trí và vai trò của việc phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh
2.3.1. Vị trí
Hoạt động sản xuất kinh doanh có vị trí vô cùng quan trọng trong mỗi
doanh nghiệp. Để tồn tại thì trước hết mỗi doanh nghiệp phải định hướng
cho mình là sản xuất cái gì? sau đó tiến hành các hoạt động sản xuất để sản
xuất ra các sản phẩm đó phục vụ cho nhu cầu của thị trường.
Hoạt động sản xuất kinh doanh là yêu cầu cơ bản cho sự tồn tại của
nền kinh tế. Thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh các donh nghiệp sẽ
trao đổi các sản phẩm với nhau từ đó có thể tiến hành hợp tác cùng kinh
doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh là cơ sở thiết yếu không thể thiếu
được và nhất lại là trong nền kinh tế thị trường như hiện nay. Nếu mỗi doanh
nghiệp biết kết hợp các yếu tố đầu vào để tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh thì sẽ mang lại một hiệu quả rất lớn cho mình.
3.2. Vai trò
Hoạt động sản xuất kinh doanh là công cụ hữu hiệu để các nhà quản
trị doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ quản trị kinh doanh của mình. Khi tiến
hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào, các doanh nghiệp đều
phải huy động sử dụng tối đa các nguồn lực sẵn có nhằm đạt được mục tiêu
là tối đa hoá lợi nhuận và hoạt động sản xuất kinh doanh là một trong những
công cụ, phương pháp để doanh nghiệp đạt được mục tiêu đó. Thông qua
việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh không những cho phép các
nhà quản trị đánh giá được tính hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp ( có đạt hiệu quả không và đạt ở mức độ nào ) mà
còn cho phép các nhà quản trị phân tích tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến
14
các hoạt động sản xuất kinh doanh, để từ đó tìm ra các biện pháp điều chỉnh
phù hợp với thực tế của thị trường, phù hợp với khả năng của doanh nghiệp.
Nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh là góp phần nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Mỗi doanh nghiệp hoạt động
sản xuất kinh doanh trên thị trường đều gặp rất nhiều đối thủ cạnh tranh
khác nhau trong cùng ngành cũng như ngoài ngành. Do vậy chỉ có nâng cao
hoạt động sản xuất kinh doanh mới có thể tiết kiệm được chi phí, nâng cao
năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm,... mới có thể nâng cao
được sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường và tìm mọi biện pháp
để nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một tất yếu
khách quan.
Thông qua việc sử dụng các nguồn lực, từng yếu tố sản xuất sẽ quan
sát được mối qua hệ giữa yếu tố sản xuất với kết quả hoạt động kinh doanh,
sẽ biết được những nguyên nhân nào sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc sử dụng
có hiệu quả các yếu tố, những nguyên nhân nào đang còn hạn chế, ảnh
hưởng đến khai thác năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Từ đó doanh
nghiệp có thể tìm được các giải pháp thích hợp để khai thác khả năng tiềm
tàng trong năng lực sản xuất của doanh nghiệp, làm lợi cho ho