Trong thực tiễn thương mại hiện nay, khuyến mại là biện pháp cạnh tranh quen thuộc để thu hút khách hàng. Với nhiều hình thức khuyến mại có thể lựa chọn, doanh nghiệp có thể thu hút số lượng lớn khách hàng trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, chính vì tác động lớn như vậy nên đôi khi khuyến mại có thể đem lại những tác động đột ngột không có lợi cho thị trường, pháp luật vẫn giữ một số cơ chế kiểm soát hoạt động này đó là quy định về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Sau đây, nhóm em đã lựa chọn đề tài số 10 “Phân tích một vụ việc thực tiễn về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh”, để từ đó tìm hiểu rõ nét hơn về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung và hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riêng.
20 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 11102 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích một vụ việc thực tiễn về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận môn học
Đề tài: “Phân tích một vụ việc thực tiễn về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh”
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thực tiễn thương mại hiện nay, khuyến mại là biện pháp cạnh tranh quen thuộc để thu hút khách hàng. Với nhiều hình thức khuyến mại có thể lựa chọn, doanh nghiệp có thể thu hút số lượng lớn khách hàng trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, chính vì tác động lớn như vậy nên đôi khi khuyến mại có thể đem lại những tác động đột ngột không có lợi cho thị trường, pháp luật vẫn giữ một số cơ chế kiểm soát hoạt động này đó là quy định về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Sau đây, nhóm em đã lựa chọn đề tài số 10 “Phân tích một vụ việc thực tiễn về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh”, để từ đó tìm hiểu rõ nét hơn về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung và hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riêng.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Khái quát chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
1. Khái niệm, đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1.1. Khái niệm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “ Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.”
Theo cách tiếp cận này, Điều 39 Luật Cạnh tranh 2004 đã liệt kê các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong đó bao gồm 10 hành vi.
Nhìn chung, cách tiếp cận hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật Việt Nam về cơ bản là phù hợp với Công ước Pari năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng như pháp luật một số nước. Bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là mọi hành vi trái với các chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan. Theo lý thuyết được thừa nhận rộng rãi ở các nước châu Âu lục địa, thì về bản chất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi vi phạm quyền dân sự; các yếu tố cấu thành của cạnh tranh không lành mạnh giống như các yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự truyền thống, đó là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, lỗi, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại.
1.2. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
Thứ nhất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện, nhằm mục đích lợi nhuận.
- Chủ thể kinh doanh trên thị trường chủ yếu là các doanh nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức hay cá nhân tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận một cách thường xuyên và chuyên nghiệp . Trên phạm vi rộng, các quy định về cạnh tranh không lành mạnh còn có thể áp dụng đối với hành vi của các nhóm doanh nghiệp hoạt động có tổ chức (hiệp hội) và các cá nhân hành nghề tự do ( bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư,…).
- Trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với các doanh nghiệp khác. Để thu được lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với các đối thủ hoạt động trong cùng ngành, lĩnh vực nhằm giành giật, thu hút khách hàng về phía mình. Do đó, mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị xem xét về tính chính đáng, phù hợp với thông lệ hay đạo đức kinh doanh và pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh có thể can thiệp vào nhiều hoạt động khác nhau của đời sống kinh tế.
Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi có tính chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh. Các thông lệ tốt ( tập quán kinh doanh) là các biện pháp dự phòng để áp dụng cho những trường hợp pháp luật chưa quy định về một hành vi cụ thể nhưng khi hành vi này được thực hiện đã xâm hại đến quyền cạnh tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng. Bên vi phạm thực hiện hành vi với lỗi cố ý, mặc dù biết hoặc buộc phải biết đến các thông lệ, chuẩn mực đặt ra đối với hoạt động kinh doanh của mình nhưng vẫn cố tình vi phạm.
Thứ ba, hành vi cạnh tranh bị kết luận là không lành mạnh và cần phải ngăn chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho các đối tượng khác. Hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng , xâm hại đến trật tự quản lí cạnh tranh của nhà nước mà không làm cản trở, sai lệch hay giảm tình trạng cạnh tranh của thị trường như hành vi hạn chế cạnh tranh. Tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia cũng như quan điểm của các cơ quan xử lí sẽ có các cách thức nhìn nhận khác nhau về hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
2. Khái niệm, các hình thức khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh và xử lí vi phạm.
2.1. Khái niệm khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Khoản 1 Điều 88 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “ Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.”
Hiện tại chưa có quy định cụ thể về khái niệm hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, Luật cạnh tranh năm 2004 cũng chỉ liệt kê những hành vi được coi là khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại Điều 46. Tuy nhiên từ khái niệm khuyến mại nêu trên có thể hiểu hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hoạt động xúc tiến thương mại của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
2.2. Các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Điều 46 Luật cạnh tranh năm 2004 đã quy định những hành vi sau đây được coi là hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh:
a, Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng: hành vi này xảy ra khi doanh nghiệp thực hiện khuyến mại bằng hình thức tổ chức giải thưởng nhưng đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng giải thưởng đã công bố trước đó. Ví dụ, như doanh nghiệp khuyến mại mua hàng hóa có giá trị đơn hàng trên 10 triệu đồng thì khách hàng sẽ được tặng một điện thoại trị giá 1 triệu đồng nhưng sau đó đã không thực hiện việc tặng điện thoại cho khách hàng khi đáp ứng được điều kiện doanh nghiệp đưa ra.
b. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng: Trong trường hợp này, hoạt động khuyến mại được doanh nghiệp sử dụng làm công cụ để làm cho khách hàng bị nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ. Ví dụ, doanh nghiệp tặng hàng mẫu cho khách hàng dùng thử với chất lượng cao hơn so với hàng hóa đang được bán trên thị trường.
Hai hành vi này được thực hiện với thủ đoạn đưa những thông tin gian dối về giải thưởng, không trung thực về hàng hoá, dịch vụ hoặc gây nhầm lẫn để lừa dối người tiêu dùng. Bản chất lừa dối của hành vi khuyến là việc các doanh nghiệp đã không trung thực về các lợi ích mà khách hàng sẽ được hưởng hoặc dùng các lợi ích đó để tạo ra sự nhận thức sai lệch về hàng hoá, dịch vụ của khách hàng. Những hành vi như tổ chức và công bố công khai về giải thưởng song không có giải thưởng hoặc giải thưởng không đúng với những gì đã công bố; hành vi tổ chức khuyến mại bằng cách đưa hàng mẫu cho khách hàng dùng thử với chất lượng cao cấp hơn nhiều so với hàng hóa được dùng để mua bán hòng làm cho khách hàng bị nhầm lẫn về chất lượng hàng hóa đều bị coi là cạnh tranh không lành mạnh.
c, Phân biệt đối xử với khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại. Căn cứ vào quy định này, có những yếu tố sau đây cấu thành nên hành vi vi phạm:
- Doanh nghiệp tổ chức khuyến mại trong một khu vực bao gồm nhiều địa bàn khác nhau (doanh nghiệp có thể chia khu vực khuyến mại thành các địa bàn theo khu vực địa lý, theo tiêu chuẩn thành thị, nông thôn hoặc theo nhóm khách hàng…;
- Khách hàng ở các địa bàn trên phải đáp ứng các điều kiện như nhau để được tham gia vào chương trình khuyến mai (ví dụ khách hàng cần có số lượng hàng hóa tiêu thụ giống nhau…);
- Doanh nghiệp đã áp dụng cơ cấu lợi ích khác nhau theo địa bàn. Do đó, dù đáp ứng các điều kiện như nhau nhưng các khách hàng ở các địa bàn khác nhau được hưởng lợi ích khuyến mại không giống nhau.
Ví dụ cùng điều kiện như nhau nhưng khách hàng ở các tỉnh thành khác nhau lại hưởng những chế độ khuyến mại với những giá trị giải thưởng khác nhau. Hành vi này bị coi là cạnh tranh không lành mạnh bởi đã phân biệt đối xử với khách hàng
d, Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hoá của mình. Để cấu thành hành vi vi phạm, cần xác định các yếu tố sau đây:
- Hình thức khuyến mại là tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử;
- Để được tặng hànng hóa, khách hàng phải chấp nhận đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà họ đang sử dụng.
Ví dụ: doanh nghiệp A và B cùng sản xuất bột giặt, doanh nghiệp A đưa ra chương trình khuyến mại là tặng bột giặt của doanh nghiệp mình cho khách hàng dùng thử nhưng khách hàng phải đổi bột giặt do doanh nghiệp khác sản xuất mà họ đang sử dụng. Hành vi này bị coi là một dạng không lành mạnh bởi nó được thực hiện nhằm xoá bỏ một cách không chính đáng thói quen tiêu dùng của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp khác
e. Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm. Đây là quy định mang tính chất mở và dự liệu của pháp luật cạnh tranh.
2.3. Xử lí vi phạm đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Theo quy định Điều 36 Nghị định số 120, doanh nghiệp thực hiện một trong các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh sẽ bị phạt tiền. Ngoài ra doanh nghiệp có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả. Cụ thể:
“1. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;
b) Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng;
c) Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
d) Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình.
2. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại là các mặt hàng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 10 của Nghị định này Điểm a khoản 2 Điều 10 Nghị định 120/2005/NĐ-CP: “Hàng hoá, dịch vụ liên quan là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, trang thiết bị y tế, thuốc phòng và chữa bệnh cho người, thuốc thú y, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ”;
;
b) Quy mô tổ chức khuyến mại thuộc phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
3. Ngoài việc bị phạt tiền quy định tại khoản 1 và 2 Điều này, doanh nghiệp thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mành còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 30 của Nghị định này”
Ngoài việc bị phạt tiền nêu trên, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm:
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
- Buộc cải chính công khai.
II. Phân tích vụ việc thực tiễn về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
1. Tóm tắt vụ việc Bột nêm massan:
- Chủ thế của hoạt động khuyến mai: Công ty Massan
- Địa điểm xảy ra vụ việc: TP. Hồ Chí Minh.
- Thời gian xảy ra vụ việc: năm 2007
- Nội dung vụ việc: công ty Massan đưa ra chương trình khuyến mại bột canh,nhưng để có được gói bột canh của công ty theo chương trình khuyến mại này thì người tiêu dùng có thể đem gói bột canh dùng dở đến đổi lấy sản phẩm Massan.
Chủ thể khiếu nại: Công ty Unilever Bestfood đã khiếu nại về chương trình khuyến mại này tới Sở Thương mại TP.Hồ Chí Minh
Cơ quan giải quyết: Thanh tra Sở Thương mại TP.Hồ Chí Minh đã lập biên bản và yêu cầu đình chỉ chương trình khuyến mại
.
2. Phân tích vụ việc
Ở vụ việc này chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy hành vi của công ty Massan có dấu hiệu của hành vi khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định tại khoản 4 Điều 46 Luật cạnh tranh năm 2004. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi khuyến mại khuyến mại tặng hàng dùng thử bằng phương thức đổi hàng hóa đều là hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Như đã phân tích ở trên, để cấu thành hành vi khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định tại khoản 4 Điều 46 Luật cạnh tranh thì hành vi khuyến mãi của công ty Massan phải thỏa mãn các yếu tố:
- Hình thức khuyến mại là tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử;
- Để được tặng hànng hóa, khách hàng phải chấp nhận đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà họ đang sử dụng.
Đối chiếu với chương trình khuyến mại của công ty Massan, hành vi khuyến mại của công ty Massan là “tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại đang sử dụng do doanh nghiệp khác sản xuất”, cụ thể:
Hình thức khuyến mại của công ty Masan là tặng hàng hóa ( bột canh) cho khách hàng dùng thử
Điều kiện để được tặng sản phẩm khuyến mại là người tiêu dùng phải đem gói bột canh dùng dở đến đổi lấy sản phẩm Massan.
Như vậy, hành vi của công ty Massan hoàn toàn thỏa mãn các để cấu thành của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định tại khoản 4 Điều 46 Luật cạnh tranh 2004.
Với điều kiện này, đối tượng được tham gia khuyến mại chỉ là các khách hàng đang giao dịch, đang sử dụng hàng hóa của đối thủ cạnh tranh. Nói cách khác, bằng hành vi này Công ty Massan đã trực tiếp lôi kéo khách hàng đang tiêu thụ sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác bằng cách tặng hàng hóa cho họ dùng thử với mong muốn khách hàng thay đổi thói quen tiêu dùng. Hành vi này bị coi là một dạng không lành mạnh bởi nó được thực hiện nhằm xoá bỏ hình ảnh của doanh nghiệp khác một cách không chính đáng trong thói quen tiêu dùng đã có của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp đó để tạo thói quen tiêu dùng mới đối với sản phẩm của doanh nghiệp mình.
Xử lí vi phạm đối với hành vi của công ty Masan: Do bột canh là thực phẩm nên đối chiếu với quy định tại Điều 36 của nghị định số 120/2005/ NĐ- CP và điểm a khoản 2 Điều 10 của Nghị định này thì hành vi khuyến mãi của công ty Massan thì hành vi khuyến mãi của công ty Massan thuộc trường hợp theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 36 Nghị định 120/2005/NĐ-CP. Vì vậy Công ty Massan sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Ngoài ra, công ty Masan còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại khoản 3 Điều 30 của Nghị định này. Bao gồm:
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
- Buộc cải chính công khai.
Tiểu kết: Như vậy, trong vụ việc này hành vi khuyến mãi của công ty Massan là hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định tại khoản 4 Điều 46 Luật cạnh tranh 2004. Với hành vi này, ngoài bị phạt tiền công ty Massan còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật.
III. Thực tiễn và kiến nghị về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
1. Thực tiễn hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
Các doanh nghiệp ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về tác dụng của khuyến mại trong việc kích thích bán hàng, tiêu thụ sản phẩm và quảng bá thương hiệu. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, để đạt được doanh thu tối đa, rất nhiều doanh nghiệp đã và đang thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, đi ngược lại với các quy định của pháp luật.
Theo nghiên cứu của hãng nghiên cứu thị trường Nielsen tại 4 thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Cần Thơ thì những người thường mua sắm và ra quyết định mua hàng chủ yếu trong gia đình, thì kết quả cho thấy: 87% người Việt Nam sẵn sàng mua hàng khuyến mại. Các doanh nghiệp thường lợi dụng tâm lý hám lợi của người tiêu dùng để đưa ra các chương trình khuyến mại hấp dẫn nhằm thu lợi nhuận tối đa cho mình. Bởi đa phần tâm lý người tiêu dùng sẽ chọn mua các sản phẩm được khuyến mại nhiều hơn.
Người tiêu dùng có thể thường xuyên bắt gặp trên các băng rôn tại các cửa hàng, sowhrom, siêu thị hoặc các phương tiện thông tin đại chúng những thông tin khuyến mại cực kỳ hấp dẫn như: giảm giá từ 40% -50% kèm quà tặng có giá trị; cuối tuần giá sốc; tri ân khách hàng – mua hàng bốc thăm may mắn,vv... Tuy vậy, không ít doanh nghiệp sử dụng hàng nhái, hàng giả , hàng kém chất lượng để khuyến mại cho khách hàng.
Theo quy định của pháp luật thì tổng thời gian thực hiện chương trình khuyến mại bằng cách giảm giá đối với một loại nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ không được vượt quá 90 (chín mươi) ngày trong một năm; một chương trình khuyến mại không được vượt quá 45 (bốn mười lăm) ngày. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp khi niêm yết giá đề là giá được giảm 20% hay 30%, nhưng bảng đó được yết quanh năm, với mức giá là một con số tuyệt đối không thay đổi. Như vậy giá đó là giá bán thật, không phải là giá giảm và hành vi này được coi là lừa dối khách hàng.
Theo quy định thì mức giảm giá tối đa đối với hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá hàng hoá, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp, vì muốn bán hàng tồn kho hoặc hết thời trang, do vậy thực hiện "đại hạ giá" ở mức 60-80%. Hay như việc khuyến mại của các nhà mạng trước đây, quy định không vượt quá 50%, nhưng vẫn có những chương trình khuyến mại lên tới 100%, 170%, 200%... Lý do họ đưa ra để lách luật đó là đây chỉ là ưu đãi dành cho khách hàng sử dụng dịch vụ lâu năm…
Có những doanh nghiệp khi thực hiện các chương trình may rủi chưa trung thực và minh bạch, như yêu cầu khách hàng sưu tập đủ số nắp chai có in hình các bộ phận chiếc xe đạp để ghép thành chiếc xe sẽ có giải cao nhưng trên thực tế không phát hành đủ các nắp chai có in hết các bộ phận; hoặc thẻ cào trúng thưởng nhưng không phát hành thẻ có giải đặc biệt... Do dó, có những chương trình khuyến mại được quảng cáo với giải thưởng rất cao nhưng không có người trúng. Doanh nghiệp "câu" người tiêu dùng mua nhiều hàng để hy vọng trúng giải nhưng cuối cùng không mất chi phí giải thưởng cho khách hàng…
2. Kiến nghị hoàn thiện và thực thi pháp luật nhằm hạn chế cạnh tranh không lành mạnh nói chung và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riếng.
2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Trong thời gian qua, để triển khai Luật Cạnh tranh cũng như các quy định xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng như: Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24-08-2005 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp; Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15-09-2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh; Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30-09-2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh; Nghị định 05/2006/NĐ-CP ngày 09-01-2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ,