Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động cách đây gần 12 năm, đã đánh dấu một bước phát triển mới có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống thị trường tài chính, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế đang không ngừng chuyển đổi vận hành theo cơ chế thị trường. Như tất cả các hoạt động kinh doanh khác, kinh doanh chứng khoán cũng nhằm mục đích cuối cùng và cao nhất là đem lại lợi nhuận hoặc nhằm thỏa mãn những lợi ích riêng nào đó của các nhà đầu tư. Kinh doanh chứng khoán có thể nói là một ngành kinh doanh có lợi nhuận lớn và độ rủi ro cao. Bởi vậy, việc nghiên cứu những biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là việc vô cùng cần thiết và quan trọng góp phần lành mạnh hóa thị trường và đưa nền kinh tế đất nước đi lên.
10 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3758 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích những biện pháp cơ bản để phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán (Phùng Thị Hương Lan ), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài số 6: Phân tích những biện pháp cơ bản để phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Lời mở đầu
Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động cách đây gần 12 năm, đã đánh dấu một bước phát triển mới có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống thị trường tài chính, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế đang không ngừng chuyển đổi vận hành theo cơ chế thị trường. Như tất cả các hoạt động kinh doanh khác, kinh doanh chứng khoán cũng nhằm mục đích cuối cùng và cao nhất là đem lại lợi nhuận hoặc nhằm thỏa mãn những lợi ích riêng nào đó của các nhà đầu tư. Kinh doanh chứng khoán có thể nói là một ngành kinh doanh có lợi nhuận lớn và độ rủi ro cao. Bởi vậy, việc nghiên cứu những biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là việc vô cùng cần thiết và quan trọng góp phần lành mạnh hóa thị trường và đưa nền kinh tế đất nước đi lên.
Nội dung
Hoạt động kinh doanh chứng khoán và các rủi do.
Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Khái niệm.
Theo quy định tại khoản 19 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 thì “kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”. Như vậy có thể thấy, khái niệm hoạt động kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam là khá rộng và hoản chỉnh. Nói một cách khác về hoạt động kinh doanh chững khoán là là loại hình hoạt động thương mại đặc biệt mà ở đó, các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các chủ thể được phép kinh doanh chứng khoán tiến hành các nghiệp vụ về chứng khoán cho chính mình hoặc cho khách hàng vì mục tiêu lợi nhuận tối đa.
Đặc điểm.
Thứ nhất, kinh doanh chứng khoán là nghề thương mại đặc thù có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của các nhà đầu tư là công chúng và các doanh nghiệp. Việc lựa chọn hình thức kinh doanh của doanh nghiệp nhằm sinh lợi là một công việc rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh chứng khoán lại là hoạt động có sức thu hút lớn đối với các doanh nghiệp vì có khả năng sinh lời cao. Tuy nhiên, hoạt động này cũng mang lại rủi ro khá lớn dẫn đến sự phá sản của doanh nghiệp. Vì thế, những chủ thể muốn thực hiện nghề nghiệp này nhất thiết phải thỏa mãn một số điều kiện rất khắt khe về mặt tài chính, thậm chí kể cả những điều kiện về vật chất, kỹ thuật để thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán. Việc quy định các điều kiện thành lập và hoạt động kinh doanh chứng khoán chính là nhằm đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả và đặc biệt là bảo đảm cho quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Thứ hai, đối tượng của hoạt động kinh doanh chứng khoán chính là các chứng khoán – giá trị động sản và các dịch vụ về chứng khoán. Chứng khoán là một phương tiện có thể thỏa thuận và có thể thay thế được, đại diện cho một giá trị tài chính. Chứng khoán gồm các loại: chứng khoán cổ phần (ví dụ cổ phiếu phổ thông của một công ty), chứng khoán nợ (như trái phiếu nhà nước...) và các chứng khoán phái sinh (như các quyền chọn, quy đổi hoặc tương lai...). Chứng khoán được thể hiện bằng hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử. Các chứng khoán là những hàng hóa và dịch vụ đặc biệt được giao dịch trên thị trường đặc biệt – thị trường chứng khoán và các giao dịch đó phải tuân thủ quy chế pháp lý đặc biệt do pháp luật về chứng khoán quy định.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ một số nguyên tắc đặc thù của thị trường chứng khoán, chẳng hạn như nguyên tắc công bằng, công khai, minh bạch và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư. Các nguyên tắc này có một ý nghĩa vô cũng quan trọng trong việc xây dựng long tin của các nhà đầu tư đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán và đảm bảo quyền lợi cho bản than họ. Đồng thời, các nguyên tắc này buộc các chủ thể phải nâng cao trách nhiệm khi tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán. Việc thể chế hóa bằng pháp luật những nguyên tắc này là những bảo đảm pháp lý cho sự vận hành an toàn, hiệu quả của thị trường chứng khoán đồng thời bảo vệ một cách hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tư tham gia thị trường.
Các rủi ro thường gặp trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Trong nền kinh tế thị trường, không có hoạt động đầu tư kinh doanh nào lại không có nguy cơ gặp rủi ro. Lợi nhuận càng cao, rủi ro càng lớn, nhưng điều ngược lại thì chưa hẳn đã đúng. Đầu tư chứng khoán cũng không nằm ngoài quy luật này, thậm chí ở mức độ sâu đậm và đa diện hơn. Các rủi ro chủ yếu của hoạt động kinh doanh chứng khoán là:
2.1 Rủi ro thanh khoản: nghĩa là chứng khoán đầu tư có thanh khoản thấp. Tính thành khoản thấp của chứng khoán mà nhà đầu tư đang sở hữu có thể do chứng khoán đó khó và thậm chí không thể bán được, hoặc không được phép bán hay chuyển nhượng nhằm thu hồi vốn đầu tư. Cụ thể hơn là chứng khoán của nhà đầu tư, vì một lý do nào đó, chứng khoán đã mua là của một công ty có tình trạng tài chính thiếu lành mạnh và triển vọng cung cấp các yếu tố đầu vào, cũng như khả năng tiêu thu sản phẩm thiếu hiệu quả vững chắc. Thậm chí, chỉ cần một sự thay đổi nhân sự cấp cao trong công ty cũng có thể khiến giá chứng khoán đó sụt giảm. Và rủi ro đối với nhà đầu tư sẽ là tối đa khi công ty phát hành chứng khoán bị phá sản và biến mất trên thương trường. Thậm chí, việc sở hữu thuần túy các cổ phiếu ưu đãi mà không được chuyển nhượng trong thời hạn nhất định cũng có thể khiến nhà đầu tư gặp rủi ro, nhất là khi cần tiến hành để trả lãi vay ngân hàng hoặc muốn rút vốn về để đầu tư vào chỗ khác. Ngay cả những chứng khoán tốt nhất cũng có thể không giữ vững được vị thế lâu dài trước sự biến động của thị trường. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư chứng khoán này có thể phải hứng chịu cả hai thiệt hại dạng “khấu hao hữu hình” và “khấu hao vô hình” giá trị và tính thanh khoản của các chứng khoán đang nắm giữ.
2.2 Rủi ro thị truờng:
Rủi ro từ các quy định và chất lượng dịch vụ của sàn giao dịch. Điển hình là các rủi ro liên quan đến việc tổ chức khớp lệnh và phân lô giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán có tổ chức. Việc khớp lệnh định kỳ gây rủi ro cho nhà đầu tư vì họ không thể hủy ngang lệnh đã đặt trước khi kết thúc phiên khớp lệnh, bất chấp những biến động mới bất lợi trên thị trường, nếu họ không muốn chịu phạt về sự thay đổi quyết định này. Trong khi đó, việc khớp lệnh liên tục, mặc dù cho phép các nhà đầu tư đặt lệnh thận trọng, chính xác hơn, được giải quyết nhu cầu mua, bán nhiều hơn, nhanh chóng, bình đẳng hơn và giảm thiểu tình trạng cung cầu áo trên thị trường chứng khoán, song có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư ở chỗ: khớp lệnh liên tục là giao dịch trên cơ sở khớp liên tục các lệnh mua, bán chứng khoán ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch, không phải chờ đến thời điểm định kỳ như kiểu khớp lệnh định kỳ.
Rủi ro từ các chấn động thị trường: Các nhà đầu tư chứng khoán có thể phải gánh chịu nhiều rủi ro liên quan đến các chấn động thị trường trong nước hoặc nước ngoài gây ra, bởi:
- Các trào lưu mua, bán chứng khoán theo tâm lý đám động làm phá vỡ các quy luật vận động bình thường của thị trường.
- Các hoạt động đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt, gây nhiễu thông tin và tự đánh bóng, thổi giá hoặc thậm chí lừa đảo và thông đồng có tổ chức của các nhà đầu tư chuyên nghiệp đủ sức gây biến động thị trường hòng trục lợi.
- Các chấn động thị trường khác từ nước ngoài.
Rủi ro thông tin trong đầu tư chứng khoán. Có thể nói, trong các loại rủi ro mà nhà đầu tư gặp phải thì rủi ro thông tin là nguy hiểm nhất và là cội nguồn của tất cả các loại rủi ro khác. Hiếm có hoạt động kinh doanh nào mà sự thành bại của nhà đầu tư lại gắn bó mật thiết, thậm chí phụ thuộc vào sự đa dạng, hệ thống, toàn diện và chính xác các thông tin có liên quan trực tiếp và gián tiếp như đầu tư chứng khoán. Các nhà đầu tư chứng khoán thì luôn háo hức trước mọi tin đồn và hăng hái góp phần vào tin đồn, luôn cảnh giác đề phòng nhưng cũng nhẹ dạ cả tin. Trong số họ, ai là người nắm được nhiều, nhanh, chính xác thông tin, người đó sẽ dễ dàng chiến thắng và chiếm thế thượng phong, giảm thiểu những rủi ro chết người do mù mờ thông tin.
2.3 Rủi ro lớn từ hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán.
Theo quy định của Luật chứng khoán 2005 thì chỉ có công ty chứng khoán mới được thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán, vốn pháp định cho nghiệp vụ tự doanh của công ty chứng khoán là 100 tỷ đồng. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên công ty chứng khoán có những lợi thế nhất định khi tiến hành hoạt động tự doanh như có thể dự đoán diễn biến của thị trường, nắm được xu thế giao dịch. Xét mức độ ảnh hưởng, hoạt động tự doanh của mỗi công ty chứng khoán với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn được coi là hoạt động giao dịch của một nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp có những tác động nhất định tới giá cả thị trường. Do đó, công ty chứng khoán có thể thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường. Do có ảnh hưởng như vậy nên khi thị trường có chiều hướng đi xuống, các công ty chứng khoán hoạt động tự doanh sẽ thua lỗ nặng và trở nên lao đao.
Một số giải pháp góp phần hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán
1.Đảm bảo sự minh bạch và lành mạnh của thị trường chứng khoán bằng pháp luật.
Để phòng tránh và giảm thiểu những rủi ro trên trước hết, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, môi trường pháp lý và của những định chế cần thiết cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Đặc biệt, cần có những quy định rõ ràng, thống nhất, phù hợp với thông lệ quốc tế về chế độ kiểm toán, kế toán và thông tin phục vụ hoạt động của thị trường chứng khoán đối với các công ty có niêm yết cổ phiếu trên thị trường. Phát triển rộng rãi cơ chế và mạng lưới thông tin chuyên đề, chuyên ngành, và thông tin đại chúng về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Đồng thời, phải có cơ chế chế tài nghiêm khắc, kịp thời, hiệu quả đối với các sai phạm trong việc bảo đảm chất lượng thông tin và cung cấp các dịch vụ phục vụ kinh doanh chứng khoán. Cần tăng cường hoạt động kiểm tra giám sát của các ban thanh tra liên ngành đối với việc phát hành cổ phiếu chui, huy động vốn một cách tùy tiện, sử dụng vốn thiếu trách nhiệm, kém hiệu quả, thậm chí “ôm” vốn đi đầu tư bất hợp pháp gây thua lỗ cho doanh nghiệp. Tăng cường kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật về chứng khoán – kinh doanh chứng khoán, áp dụng linh hoạt các biện pháp cấp, đình chỉ và thu hồi các loại giấy phép trong lĩnh vực chứng khoán và kinh doanh chứng khoán đối với các đơn vị và cá nhân vi phạm các quy định về phổ biến và đảm bảo chất lượng, an toàn thông tin chứng khoán. Đặc biệt, cần tăng cường mức xử phạt thậm chí đưa một số hành vi vi phạm nguy hiểm vào Bộ luật hình sự để xử lý như những loại tội phạm mới và thông tin rộng rãi về các đối tượng và hành vi vi phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm giữ nghiêm kỷ cương trên thị trường chứng khoán. (Theo bài viết “Tăng xử phạt vi phạm hành chính để thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, minh bạch hơn” – www.tapchicongsan.org).
2. Nâng cao hiệu quả của pháp luật về quản trị công ty
Đối với nước ta, khái niệm quản trị công ty hầu như vẫn còn tương đối xa lạ với cả giới hoạch định chính sách cũng như những người nghiên cứu pháp lý. Để bảo đảm hiệu quả pháp luật về quản trị công ty trong trong mối liên hệ với việc hoàn thiện pháp luật về công bố thông tin trên TTCK cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:
- Cần coi việc tuân thủ các quy định về quản trị công ty là một trong những yêu cầu bắt buộc trước khi thực hiện việc niêm yết trên TTCK;
- Các công ty niêm yết tại Trung tâm/Sở Giao dịch chứng khoán phải thường xuyên báo cáo việc tuân thủ các quy định về quản trị công ty và báo cáo cho Trung tâm/Sở Giao dịch chứng khoán những thay đổi về nhân sự của công ty một cách kịp thời;
- Khi thiết kế Điều lệ công ty, quy chế hoạt động của Hội đồng quản trị, người quản lý công ty và Ban kiểm soát công ty phải xác định rõ nội dung, thẩm quyền và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện các nhiệm vụ về quản trị công ty; nội dung và phương pháp phối hợp giữa các bộ phận trong công ty khi giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình.
- Các công ty tự mình hoặc dưới sự trợ giúp, tư vấn của các chuyên gia khẩn trương rà soát hệ thống quản trị công ty của mình nhằm phát hiện những thiếu sót, lỗ hổng, những điểm chưa hợp lý từ đó đề ra biện pháp khắc phục. Nâng cao vị trí, vai trò của cổ đông – chủ sở hữu công ty trong việc đề xuất các yêu cầu quản trị công ty, nhất là việc thực hiện quyền giám sát của cổ đông đối với hoạt động của người quản trị công ty.
3. Nâng cao vai trò của người quản trị công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán.
Là người trực tiếp điều hành hoạt động của công ty nên người quản trị công có rất nhiều thông tin và những thông tin đó cần phải được công bố, báo cáo cho cổ đông biết để họ thực hiện quyền của mình. Tuy vậy, người quản trị công ty luôn chịu sự chi phối từ rất nhiều phía như cổ đông lớn – người cử mình và Hội đồng quản trị, lợi ích tư nhân của mình… nên đã dẫn đến việc họ lợi dụng các thông tin từ hoạt động của công ty để trục lợi. Như vậy, để người quản trị công ty gắn bó với sự sống còn của công ty thì phải có các tiêu chuẩn vật chất đối với những người này. Tức là họ phải nắm giữ một số cổ phần nhất định đối với công ty, và mức cổ phần nắm giữ không được quá thấp.
Bên cạnh việc gắn trách nhiệm của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát thông qua việc nắm giữ trị giá cổ phần tại công ty, thì việc ban hành bộ quy tắc đạo đức của nhà quản trị doanh nghiệp là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Các công ty cần có những biện pháp khuyến khích thu hút người có năng lực vào quản trị công ty.
Nâng cao vai trò của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán trong việc bảo đảm tính minh bạch trên thị trường.
Vai trò của hiệp hội Kinh doanh chứng khoán trong việc nâng cao tính minh bạch trên TTCK nước ta thể hiện ở những điểm sau đây:
- Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán sẽ phản ánh được mức độ thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin của các thành viên;
- Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán sẽ đưa ra những khuyến cáo đối với nhà đầu tư trước những thông tin không đáng tin cậy, không có cơ sở;
- Kiến nghị đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc điều chỉnh chính sách cho phù hợp với những biến động của thị trường.
5. Nâng cao hiệu quả hoạt động của báo giới, làm rõ vai trò của báo giới trong hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.
Thông qua kênh báo chí giúp cho tổ chức phát hành tiếp cận được với công chúng đầu tư và công chúng đầu tư tiếp cận được với tổ chức phát hành. Điều mà chúng ta quan tâm hiện nay, đó là bản thân doanh nghiệp không muốn tiếp cận với báo chí, bởi khi khai thác thông tin báo giới thường quá nhấn mạnh tới những thông tin nhỏ hay cường điệu hoá thông tin gây nên những hiểu nhầm cho nhà đầu tư. Vai trò của báo giới đối với hoạt động công bố thông tin trên TTCK thể hiện ở những điểm sau:
- Báo giới phải góp phần định hướng cho công chúng đầu tư, đưa các thông tin chính xác, khách quan và tránh những bình luận gây hại cho doanh nghiệp;
- Báo giới phải trở thành công cụ để cho doanh nghiệp quảng bá và khuếch trương thương hiệu của mình trên thị trường;
- Khi phản ánh các thông tin về doanh nghiệp phải bảo đảm tính khách quan, công bằng, không cường điệu hoá thông tin, không đưa những thông tin “gây nhiễu” làm khó khăn cho nhà đầu tư.
Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK, Bộ Tài chính chỉ đạo Uỷ ban Chứng khoán nhà nước phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh việc thông tin tuyên truyền với nội dung và phương thức đa dạng để công chúng có hiểu biết hơn về những lợi ích cũng như những rủi ro khi tham gia thị trường chứng khoán, coi đây là một trong các giải pháp trọng tâm lâu dài nhằm phát triển lành mạnh và bền vững thị trường chứng khoán. Đây cần được coi là tôn chỉ, mục đích hoạt động của báo chí trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK.
6. Củng cố lòng tin của nhà đầu tư cũng như tăng cường sự quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
TTCK rất nhạy cảm với thông tin. Thông tin càng minh bạch, càng rõ ràng thì niềm tin của công chúng đầu tư vào TTCK càng lớn. Niềm tin của công chúng đầu tư là động lực thúc đẩy thị trường ngày càng phát triển, vượt qua những giai đoạn khó khăn thử thách. Để thành công trên TTCK ngoài kiến thức, tiền bạc, sự kiên nhẫn, sự may mắn thì lòng tin vẫn là nhân tố có ý nghĩa quyết định. Nếu không có lòng tin vào thị trường, không có lòng tin vào tổ chức phát hành thì chắc chắn nhà đầu tư không thể đầu tư tiền bạc của mình vào được. Nói một cách khác đi, lòng tin của nhà đầu tư quyết định đến sự phát triển của TTCK.
Một trong những nguyên nhân của việc suy giảm lòng tin của nhà đầu tư đó chính là việc họ không có cơ hội tiếp cận được với các thông tin chính thức trước khi đưa ra quyết định đầu tư. Niềm tin của công chúng đầu tư sẽ được cải thiện nếu các quy định pháp luật về công bố thông tin trên TTCK được các chủ thể tham gia thị trường tuân thủ đầy đủ.
Công tác quản lý nhà nước về TTCK cũng cần phải dựa trên hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác, khách quan và kịp thời. Các giao dịch bất hợp pháp trong lĩnh vực chứng khoán nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời thì những hậu quả mà nó mang lại là rất lớn. Các nước có TTCK phát triển thì cũng có một hệ thống thông tin về TTCK rất hiện đại. Thời gian qua, với những nỗ lực của Uỷ ban Chứng khoán nhà nước trong việc duy trì, củng cố lòng tin của nhà đầu tư vào TTCK bằng rất nhiều các biện pháp khác nhau như điều chỉnh biên độ giao dịch, tăng cường các biện pháp hỗ trợ cho thị trường, xử lý vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK… Tất cả những nỗ lực đó đã góp phần không nhỏ vào việc củng cố lòng tin của nhà đầu tư vào thị trường. Việc củng cố lòng tin của nhà đầu tư vào thị trường là công việc khó khăn và phải được tiến hành thường xuyên, bởi nếu không chú tâm vào việc giám sát thị trường thì ngay lập tức có thể ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng vào thị trường.
Kết luận.
Rủi ro đối với việc kinh doanh chứng khoán chủ yếu là do sự thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích và phản ứng thị trường một cách nhạy bén, chính xác của bản thân nhà đầu tư…Muốn cho hoạt động kinh doanh được thuận lợi, không còn cách nào khác, các nhà đầu tư phải không ngừng học hỏi, tích lũy kinh nghiệm. Sự phát triển của nền kinh tế thông tin, kinh tế tri thức đòi hỏi và cho phép phải tri thức hóa hoạt động kinh doanh, trong đó có kinh doanh chứng khoán, để đầu tư chứng khoán thực sự “ích nước, lợi nhà”.