Đề tài Phân tích những lĩnh vực chính của văn hóa theo tư tưởng hồ Chí Minh

Văn hóa là một lĩnh vực bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người đã sang tạo ra. Nó chính là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. Và xây dựng nền văn hóa chính là nâng cao dân trí, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, phong cách lành mạnh, luôn hướng con người đến cái chân, thiện, mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân. Như vậy, kế tục sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới là một trong những nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của đất nước trong bất cứ thời kỳ nào cũng cần phải thực hiện. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa luôn là ngọn đèn soi sáng, là nền tảng tư tưởng cho chúng ta trên con đường xây dựng nền văn hóa mới. Nhận thấy sự hấp dẫn của vấn đề trên, em xin mạnh dạn lựa chọn đề tài: Phân tích những lĩnh vực chính của văn hóa theo tư tưởng hồ Chí Minh để tìm hiểu và nghiên cứu.

doc10 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2414 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích những lĩnh vực chính của văn hóa theo tư tưởng hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang MỞ BÀI 2 NỘI DUNG 2 1. Khái quát những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hóa 2 a. Khái niệm văn hóa 2 b. Vị trí vai trò của văn hóa 3 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa 3 a. Văn hóa giáo dục 3 b. Văn hóa văn nghệ 5 c. Văn hóa đời sống 7 KẾT BÀI 9 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 10 MỞ ĐẦU Văn hóa là một lĩnh vực bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người đã sang tạo ra. Nó chính là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. Và xây dựng nền văn hóa chính là nâng cao dân trí, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, phong cách lành mạnh, luôn hướng con người đến cái chân, thiện, mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân. Như vậy, kế tục sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới là một trong những nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của đất nước trong bất cứ thời kỳ nào cũng cần phải thực hiện. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa luôn là ngọn đèn soi sáng, là nền tảng tư tưởng cho chúng ta trên con đường xây dựng nền văn hóa mới. Nhận thấy sự hấp dẫn của vấn đề trên, em xin mạnh dạn lựa chọn đề tài: Phân tích những lĩnh vực chính của văn hóa theo tư tưởng hồ Chí Minh để tìm hiểu và nghiên cứu. NỘI DUNG. 1. Khái quát những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hóa a. Khái niệm “Văn hóa” Văn hóa được Hồ Chí Minh định nghĩa theo nghĩa rộng lần đầu tiên vào năm 1942- 1943: “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Người đã xác định: Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, là bộ phận của kiến trúc thượng tầng. b. Vị trí, vai trò của văn hóa. Văn hóa giữ vị trí và vai trò vô cùng quan trọng, văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, có tác động qua lại với kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chinh trị , thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Theo Hồ Chí Minh, chính trị và xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển. Đảng ta xác định tính chất của nền văn hóa là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hai tính chất ấy có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thể hiện nội dung khoa học, hiện đại, vừa thể hiện tính chất đại chúng, phong phú và còn có sự kế thừa, phát triển. Trong thời kì hiện nay, Đảng ta xác định văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cong nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cuãng là tinh thần đó. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa. a. Văn hóa giáo dục. Sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chính Minh bỏ nhiều công sức tìm hiểu và nghiên cứu về nền giáo dục phong kiến và thực dân, chuẩn bị mọi mặt cho việc xây dựng một nền giáo dục mới của nước ta. Người phê phán nền giáo dục phong kiến là từ chương, kinh viện xa rời thực tế và coi trọng mẫu người theo quan niệm của Nho giáo, phụ nữ bị tước mất quyền học vấn,… Người cũng đã tố cáo nền giáo dục thực dân là nền giáo dục ngu dân, nhồi sọ và giả dối. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công việc xây dựng một nền giáo dục mới đặt ra như một nhiệm vụ vừa lâu dài vừa cấp bách của chúng ta, không thể chậm trễ. Hồ Chí Minh đã viết: “chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”. Trong quá trình xây dựng nền văn hóa giáo dục ở nước ta, Người đã đưa ra một hệ thống quan điểm phong phú và toàn diện về giáo dục, định hướng cho nền giáo dục phát triển đúng đắn, góp phần quan trong vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà như: Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục nhằm mục tiêu là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa trong giáo dục, nghĩa là trong quá trình dạy và học. Theo Người, dạy và học để mở mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phẩm chất trong sang và phong cách lành mạnh cho nhân dân; để đào tạo những con người mới vừa có đức vừa có tài và học để làm việc, làm người, làm cán bộ, do vậy phải có thực học, để thực hiện cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới và đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước. Người chỉ rõ cần phải cải cách giáo dục để xây dựng một hệ thống trường lớp với chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với những bước phát triển của nước ta, bao gồm cả văn hóa, chính trị, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp và lao động. học phải sang tạo, phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học tập phải kết hợp với lao động, phải tẩy sạch mọi tàn dư của nền giáo dục nô dịch. Phối hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội nhằm đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục của nước nhà. - Quan điểm của Người là học ở mọi nơi, mọi lúc; học mọi người và học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Khuyến khích tinh thần ham học hỏi, “học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học”. Học không chỉ ở trường lớp mà còn học ở những người thầy xung quanh mình, “ học thầy không tày học bạn”. Học không bao giờ là đủ. Đó là cả một quá trình dài lao động đầy gian khổ buộc người học phải có quyết tâm, có nghị lực và có phương pháp đúng thì mới có thể thành công. - Phải giáo dục để không ngừng nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn, mang tính quyết định tới vận mệnh đất nước. Vì có trình độ mới có khả năng tổng kết kinh nghiệm, hiểu rõ quy luật và làm đúng quy luật, từ đó thúc đẩy sự phát triển. Người đòi hỏi ở mỗi cán bộ đảng viên phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác- Lênin để vận dụng vào tổng kết những kinh nghiệm hoạt động của Đảng ta; Phải học tập văn hóa, khoa học, kỹ thuật, kinh tế và quản lý. Để từ đó có sự chuyên môn hóa trong mọi mặt của đời sống, đặc biệt là trong đường lối lãnh đạo, tránh tình trạng lãnh đạo chung chung, giáo điều. b. Văn hóa văn nghệ Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hóa, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, được ví như là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Trong chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam là một dân tộc rất quý trọng văn nghệ. Văn nghệ đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu của nhân dân ta. Tiếp nối truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng văn nghệ. Hồ Chí Minh không chỉ là người khai sinh ra nền văn nghệ cách mạng ở Việt Nam mà còn là một chiến sĩ tiền phong trong sáng tạo văn nghệ. Trong quá trình chỉ đạo xây dựng nền văn nghệ cách mạng, Người đã đưa ra nhiều quan điểm lớn, trong đó có ba quan điểm chủ yếu: Một là, Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được thể hiện rất sinh động từ những năm 20 của thế kỷ XX và trong nền văn nghệ cách mạng của nước ta trong mấy chục năm qua. Từ Bản yêu sách của nhân dân An Nam đến Bản án chế độ thực dân Pháp đến hàng loạt bài báo và tác phẩm như: Đông Dương, Con rồng tre, con người biết mùi hun khói, …, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt tàn ác, âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực dân, đồng thời thức tỉnh nhân dân ta và nhân dân các nước thuộc địa đứng lên giải phóng; với tinh thần “nay ở trong thơ nên có thép; nhà thơ cũng phải biết xung phong”. Người chỉ rõ ngòi bút của các văn nghệ sĩ cũng là những vũ khí và sử dụng nó một cách sắc bén và hiệu quả góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Hơn nữa, người chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ lại phải có tài năng sáng tạo do chính yêu cầu của văn nghệ đặt ra. Vì vậy, ngoài việc nang cao trình độ chính trị, văn hóa, nghề nghiệp, nâng cao hiểu biết về cuộc sống và con người, Hồ Chí Minh vẫn thường căn dặn các chiến sĩ phải bồi dưỡng phẩm chất và tài năng – Những điều kiện cần thiết cho sáng tạo nghệ thuật. Một tác phẩm văn nghệ phải do tài năng sáng tạo của cá nhân văn nghệ sĩ quyết định. Điều đó được thể hiện rất sinh động trong nền văn nghệ cách mạng của nước ta suốt máy chục năm qua. Hai là, văn nghệ phải gắn liền với thực tiễn của đời sống nhân dân - đó là đời sống lao động sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt và xây dựng xã hội mới. Theo Người, văn nghệ vừa phản ánh thực tiễn ấy vừa thúc đẩy sự phát triển của thực tiễn theo quy luật của cái đẹp, và chỉ có thực tiễn đời sống của nhân dân mới đem lại nguồn sinh khí vô tận cho sáng tác và sáng tạo văn hóa nghệ thuật. Do vậy, người yêu cầu các văn nghệ sĩ phải “thật hòa mình vào quần chúng”, “ từ trong quần chúng ra, trở về nơi quần chúng” và không được quên rằng chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của mình: Nếu nhà văn quên điều đó, nhân dân sẽ quên anh ta. Đánh giá cao vai trò của quần chúng nhân đối với sự nghiệp sáng tạo và phát triển văn hóa văn nghệ, mọi hoạt động văn hóa văn nghệ phải gắn với lợi ích của toàn dân. Ba là, phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của dất nước và dân tộc, phải phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân, được quần chúng yêu thích. Mục đích của văn nghệ là phục vụ quần chúng. Tại Đại hội văn nghệ toàn qốc lân thứ III, ngày 1/12/1962, Hồ Chí Minh đã nói với văn nghệ sĩ: “Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta”. Tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại phải là những tác phẩm miêu tả vừa hay, vừa chân thực sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, văn nghệ phục vụ quần chúng không phải là hạ thấp nghệ thuật, không phải là cung cấp cho họ những món ăn tinh thần để chế biến vội vàng. Do vậy, để thực hiện mục tiêu này Người nhấn mạnh cần phải có những tác phẩm hay mang tính nghệ thuật cao - những tác phẩm diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, trình bày dễ hiểu nhưng vẫn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, văn phong trong sang, hấp dẫn. Đồng thời cần phẩn ánh có tính định hướng cho con người hướng tới những giá tri thật, những chuẩn mực đúng và đẹp. Chính điều đó đã mở ra con đường sáng tạo không giới hạn của nghệ sĩ. c. Văn hóa đời sống. Văn hóa là một bộ mặt tinh thần của xã hội, được thể hiện ra ngay trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Gắn việc xây dựng nền văn hóa mới với xây dựng đời sống mới thực sự là một cách nhìn, giải pháp rất độc đáo của Hồ Chí Minh. Văn hóa đời sống thực chất là đời sống mới, được Hồ Chí Minh nêu ra với ba nội dung: đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới. Đạo đức gắn liền với nếp sống và lối sống, được thể hiện qua lối sống và nếp sống. Vì vậy, xây dựng đạo đức phải được tiến hành đồng thời với lối sống và nếp sống. Theo Người: Đạo đức mới là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Việc xây dựng đạo đức mới phải được tiến hành đồng thời với việc xây dựng lối sống và nếp sống mới. Có dựa trên cái nền đạo đức thì mới xây dựng được lối sống, nếp sống mới lành mạnh, vui tươi, hướng con người tới tầm cao văn hóa, của một đất nước độc lập và chủ nghĩa xã hội. Theo Người: “Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của nhân dân” hay “Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời sống mới”. Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức, phong cách sống và phong cách làm việc. Theo Người có năm cách phải sửa đổi là “cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc”( phong cách sống). Theo Người, phải khiêm tốn, giản dị, chừng mực, ngăn nắp,…phong cách làm việc phải sửa đổi cho có tác phong quần chúng, tác phong tập thể - dân chủ, tác phong khoa học, đặc biệt là đối với cán bộ cách mạng. Tư tưởng của Người đi thẳng đến quần chúng và mọi người đều có thể hiểu được, nhớ được và làm được. Nếp sống mới là quá trình xây dựng thói quen của lối sống mới, từ bỏ dần thói quen của lối sống cũ và xây dựng phong tục tập quán mới thay cho phong tục tập quán cũ cổ hủ. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng nếp sống mới cần có sự kế thừa chọn lọc. không phải cái gì cũ cũng là xấu, là phải bỏ đi. Cái cũ mà xấu thì phải bỏ đi, cái cũ mà không xấu nhưng phiền hà thì phải sửa đổi lại cho hợp lý, cái cũ mà tốt thì phải phát triển thêm, cái mới mà hay thì phải làm. Tuy nhiên, việc thay đổi những thói quen, cải tạo những phong tục tập quán lạc hậu không thể tiến hành một cách tùy tiện. Trước hết phải tuyên truyền, giải thích để mọi người hiểu được cái lợi của việc xây dựng những thói quen, phong tục, tập quán mới, hướng dẫn việc làm cụ thể, hiểu để làm, để thực hiện cho đời sống mới. Theo Người: “Tuyên truyền đời sống mới cũng như tuyên truyền việc khác, phải hăng hái, bền gan chịu khó, đồng thời phải cẩn thận, không khéo, mềm mỏng”. Nhưng quan trọng là phải có Người làm gương, trước hết là chính những người lãnh đạo, quản lý, những người tuyên truyền xây dựng đời sống mới, phải miệng nói tay làm, phải nêu gương trước. Hơn nữa còn phải xây dựng cho được những tập thể kiểu mẫu để mọi người noi theo. Như vậy, nếp sống mới là nếp sống văn minh, lịch sự. Xây dựng văn hóa đời sống mới, nhằm biến nước ta từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu trở thành một đất nước phồn vinh, giàu mạnh là cả một quá trình lâu dài gian khổ. Công việc đó đòi hỏi sự quyết tâm của cả cộng đồng dân tộc, trước hết phải bắt đầu từ mỗi con người, mỗi gia đình, với tư cách là một tế bào của xã hội. KẾT BÀI Với tầm vóc của một danh nhân văn hoá thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta một di sản tư tưởng vô cùng quý báu về mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hoá. Việc tìm hiểu những quan điểm về văn hoá và vấn đề gìn giữ, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh giúp chúng ta có cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong công cuộc đổi mới hôm nay. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TS. Nguyễn Mạnh Tường (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh – một số nhận thức cơ bản, Nxb.Chính tri quốc gia, Hà Nội – 2009. 2. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2009. 3. Trần Thị Huyền – Phạm Quốc Thành (đồng Chủ biên), tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh (Hỏi – đáp), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004. 4. Lê Mậu Hãn, sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001. 5. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003. 6. Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. CTQG, 2000. 7. Các website: http: // www. Dangcongsan.vn http: // www.tapchicongsan.org.vn
Luận văn liên quan