Đề tài Phân tích những tác động của tình trạng đô la hóa ở Việt Nam và các biện pháp khắc phục

Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển không ngừng của quan hệ thương mại giữa các quốc gia dẫn tới sự xâm nhập mạnh mẽ của các ngoại tệ mạnh vào một số nền kinh tế dẫn tới hiện tương đô la hóa. Có thể nói đôla hóa là hiện tượng phổ biến ở các nước đang phát triển đang trong quá trình chuyển đổi trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam hiện nay đôla hóa đang là vấn đề nóng bỏng thu hút sự quan tâm của các nàh nghiên cứu kinh tế đồng thời cũng là mối lo ngại của các nhà hoạch định chính sách. Việc tìm ra những giải pháp hiệu quả nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của hiện tượng này lên nền kinh tế là một nhiệm vụ cấp bách.Chính vì vậy đề tài “Phân tích những tác động của tình trạng đôla hóa ở Việt Nam và các biện pháp khắc phục’’ đã được chọn.

doc43 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3184 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích những tác động của tình trạng đô la hóa ở Việt Nam và các biện pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG ---@&?--- BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Đề tài: Phân tích những tác động của tình trạng đôla hóa ở Việt Nam và các biện pháp khắc phục MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển không ngừng của quan hệ thương mại giữa các quốc gia dẫn tới sự xâm nhập mạnh mẽ của các ngoại tệ mạnh vào một số nền kinh tế dẫn tới hiện tương đô la hóa. Có thể nói đôla hóa là hiện tượng phổ biến ở các nước đang phát triển đang trong quá trình chuyển đổi trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam hiện nay đôla hóa đang là vấn đề nóng bỏng thu hút sự quan tâm của các nàh nghiên cứu kinh tế đồng thời cũng là mối lo ngại của các nhà hoạch định chính sách. Việc tìm ra những giải pháp hiệu quả nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của hiện tượng này lên nền kinh tế là một nhiệm vụ cấp bách.Chính vì vậy đề tài “Phân tích những tác động của tình trạng đôla hóa ở Việt Nam và các biện pháp khắc phục’’ đã được chọn. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÔLA HÓA Tổng quan về đôla hóa 1. Khái niệm đôla hóa Đôla hóa là hiện tượng xảy ra khi ngoại tệ được sử dụng rộng rãi để thay thế một phần hoặc toàn bộ nội tệ để thực hiện một số chức năng của tiền. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, tiền có ba chức năng: làm phương tiện trao đổi, đơn vị đo lường và cất trữ giá trị. Đối với những nền kinh tế bị đô la hóa ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong việc niêm yết giá hàng hóa dịch vụ, trong thanh toán và trong cất trữ. Bất kỳ một ngoại tệ nào (như đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật…) đều có khả năng thay thế đồng nội tệ dẫn đến hiện tượng đôla hóa, tuy nhiên trong một thời gian dài USD được nhìn nhận là đồng tiền mạnh nhất thế giới, được sử dụng rộng rãi nhất trong các quan hệ thương mại quốc tế nên trong bài đôla hóa là để chỉ sự thay thế nội tệ của USD. Mức độ sử dụng ngoại tệ để thay thế các chức năng của nội tệ thể hiện dưới hai dạng: Thứ nhất là sự thay thế tài sản: đó là việc công chúng nắm giữ trái phiếu nước ngoài; tài khoản tiền gửi tiết kiệm tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài; tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ trong nước với mục đích cất trữ giá trị hạn chế tác động của việc đồng nội tệ mất giá khi làm phát xảy ra. Thứ hai là sự thay thế tiền tệ: đó là việc người dân nắm giữ ngoại tệ tiền mặt, tài khoản tiền gửi thanh toán bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng trong nước để thực hiện chức năng phương tiện thanh toán. Giá hàng hóa, dịch vụ cũng được niêm yết bằng ngoại tệ và người dân sử dụng ngoại tệ để thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ đó. 2. Phân loại đôla hóa Tùy theo mức độ sử dụng rộng rãi USD trong nền kinh tế và thái độ của quốc gia đó đối với việc thừa nhận hay không thừa nhận mà Đô la hóa được chia làm 3 mức độ: Đôla hóa chính thức là hiện tượng xảy ra khi một quốc gia sử dụng ngoại tệ là tiền tệ chính thức, hoàn toàn thay thế nội tệ. Trong những nền kinh tế đôla hóa chính thức nội tệ không còn tồn tại hoặc chỉ tồn tại dưới dạng tiền xu với mệnh giá nhỏ và không có nhiều ý nghĩa trong việc thực hiện các chức năng của tiền. Trong khi đó ngoại tệ là tiền tệ chính thức được sử dụng với cả 3 chức năng: phương tiện thanh toán, đơn vị đo lường và cất trữ giá trị. NHTW của những quốc gia này chỉ tồn tại trên danh nghĩa không có vai trò gì trong việc điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ của quốc gia phụ thuộc hoàn toàn vào chính sách của Cục dự trữ liên bang Mỹ. Hầu hết các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức chỉ chọn một ngoại tệ làm tiền tệ chính thức. Do mọi người đều coi đồng tiền quốc gia là biểu tượng chủ quyền dân tộc, mất đi đồng tiền có nghĩa là giao quyền điều hành chính sách tiền tệ cho NHTW nước ngoài vì vậy hiện tượng đôla hóa chính thức không phổ biến thường chỉ xảy ra ở những nước có nền kinh tế nhỏ. Một nước chỉ từ bỏ đồng nội tệ chấp nhận ngoại tệ là tiền tệ chính thức khi chính phủ nước đó không còn cách nào khác để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng suy thoái và tình trạng mất ổn định kéo dài. Đôla hóa không chính thức là hiện tượng xảy ra khi người dân một nước nắm giữ số lượng lớn tài sản bằng ngoại tệ, tuy nhiên nội tệ vẫn là đồng tiền chính thứ, hợp pháp của quốc gia đó. Trong những nền kinh tế bị đôla hóa không chính thức, ngoại tệ được công chúng ưa chuộng nắm giữ dưới dạng tài sản như: ngoại tệ tiền mặt, trái phiếu nước ngoài, tài khoản tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài, tài khoản tiền gửi ngoại tệ trong nước. Các nhà kinh tế nhìn chung đồng nhất đôla hóa không chính thức với thay thế tài sản có nghĩa là ngoại tệ được nắm giữ chủ yếu với chức năng cất trữ giá trị nhằm giảm tác động của việc đồng nội tệ mất giá trong điều kiện lạm phát. Tuy nhiên tùy thuộc vào mức độ đôla hóa trong nền kinh tế và tùy thuộc vào những quy định hạn chế trong hệ thông pháp luật của từng quốc gia về vấn đề sử dụng ngoại tệ mà có những quốc gia ngoại tệ còn được sử dụng trong cả thanh toán và niêm yết giá hàng hóa dịch vụ. Thông thường, trong các quốc gia này, các khoản mục như lương, thuế, những hàng hóa dịch vụ bình thường vẫn được thanh toán bằng nội tệ còn những hàng hóa, dịch vụ xa xỉ hay trong hoạt động kinh doanh bất động sản thì được niêm yết và thanh toán bằng ngoại tệ. Việt Nam là một trong số các nước có nền kinh tế bị đôla hóa không chính thức. Đôla hóa bán chính thức là hiện tượng mà trong nền kinh tế có sự lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ở những quốc gia này ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp và chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng số tiền gửi ngân hàng nhưng việc trả lương, nộp thuế và các chi tiêu hàng ngày vẫn đc thực hiện bằng nội tệ. Các nước này vẫn duy trì NHTW để thực thi chính sách tiền tệ của họ. II. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐÔLA HÓA 1. Nguyên nhân chủ quan Các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức thường là những quốc gia có nền kinh tế nhỏ quy mô dân số cũng như diện tích nhỏ. Đối với những nước này việc chấp nhận một ngoại tệ mạnh là tiền tệ chính thức góp phần làm cho nền kinh tế ổn định hơn, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng ở mức cao hơn và họ chấp nhận đánh đổi chủ quyền về tiền tệ để đạt được sự ổn định này hoặc do sự yếu kém trong việc hoạch định thực thi chính sách tiền tệ của NHTW và sự hoạt động kém hiệu quả của hệ thống NHTM trong nước, NHTW không đủ năng lực để điều hành chính sách tiền tệ do đó chấp nhận giao quyền điều hành cho NHTW nước ngoài. Panama là một ví dụ điển hình về một nước đôla hóa hoàn toàn mặc dù về kinh tế do sử dụng chính thức USD đã tạo ra môi trường kinh tế ổn định, trở thành trung tâm tài chính quan trọng trong vùng, tương phản với các nước láng giềng, nhưng về chính trị, Panama là nước dễ bị tổn thương trong quan hệ với Mỹ. Điển hình là năm 1998, Mỹ đã buộc tội và bỏ tù nhà lãnh đạo của nước này, tướng Manuel Noriega, đồng thời chính phủ Mỹ ra lệnh đóng băng tài sản của Panama tại các ngân hàng Mỹ, ngừng tất cả việc chuyển nhượng, thanh toán bằng USD. 2. Nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân thứ nhất là sự sụp đổ của hệ thống Bretton Wood Sau khi hệ thống này sụp đổ rất nhiều nước gặp khó khăn trong việc tìm kiếm một chế độ tỷ giá phù hợp, việc điều hành tỷ giá lại càng khó khăn hơn khi thị trường vốn và thị trường thương mại tự do hội nhập. Một trong những cách giải quyết tương đối hiệu quả vấn đề này là từ bỏ đồng tiền chính thống của mình và chấp nhận một tiền tệ ổn định hơn của quốc gia khác. Cũng trong giai đoạn này các nước kém phát triển không xuất khẩu dầu mỏ gặp nhiều khó khăn một mặt do giá dầu tăng cao một mặt do kinh tế các nước phát triển suy thoái nên xuất khẩu vào những nước này có xu hướng giảm sút. Kết quả là các nước này chịu thâm hụt cán cân thanh toán với khối lượng khổng lồ và để cân bằng chính phủ các nước tiến hành vay nợ nước ngoài dẫn đến đôla hóa tài khoản nợ bươc đầu mở đường cho đôla hóa. Nguyên nhân thứ hai là do nhu cầu phòng chống rủi ro. Khi nền kinh tế trong nước gặp phải những bất ổn trầm trọng như khủng hoảng tài chính, lạm phát cao thậm chí siêu lạm phát trong khi lãi suất tiền gửi nội tệ lại không mấy hấp dẫn so với lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Người dân sẽ tìm đến các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Với chức năng ban đầu làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị. Nguyên nhân thứ ba đô la hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của tiền tệ thế giới. Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, được tự do chuyển đổi đã được lưu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới. Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hóa như GBP, JYP, EUR..., nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới). Trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hóa giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Nguyên nhân thứ tư mức độ đôla hóa của mỗi nước khác nhau còn phụ thuộc vào trình độ dân trí và tâm lý của người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng và cơ chế quản lý ngoại hối. Ở những quốc gia trình độ của người dân về lĩnh vực tài chính tiền tệ còn hạn chế họ có tâm lý thích nắm giữ ngoại tệ, thích sử dụng hàng ngoại sẽ tiếp tay cho sự thâm nhập ngoại tệ ngày càng sâu vào nền kinh tế trong nước. Bên cạnh đó trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng trong nước càng thấp, cơ chế quản lý tỷ giá càng lỏng lẻo thì mức độ đôla hóa nền kinh tế càng cao. III. TÁC ĐỘNG CỦA TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA Có rất nhiều quan điểm đánh giá về vấn đề tác động của đôla hóa lên nền kinh tế. Có ý kiến cho rằng đôla hóa chỉ mang lại tác động tiêu cực do đó phải đưa ra giải pháp nhằm xóa bỏ hoàn toàn hiện tượng này. Tuy nhiên thực tế cho thấy bên cạnh những tác động tiêu cực đôla hóa cũng có những tác động tích cực. 1. Tác động tích cực Thứ nhất đối với các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa hoàn toàn, ngoại tệ mạnh được sử dụng thay thế toàn bộ nội tệ trong giao dịch cũng như trong cất trữ, do đó đôla hóa chính thức góp phần làm giảm chi phí giao dịch như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ, các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. Ngoài ra đôla hóa chính thức còn loại bỏ hoàn toàn rủi ro tiền tệ xảy ra trong giao dịch giữa các quốc gia cùng sử dụng USD từ đó thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các nước. Những nền kinh tế đôla hóa chính thức thường ổn định hơn và có tỷ lệ lạm phát thấp hơn, chính sự ổn định này của nền kinh tế đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn vào trong nước từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế . Thứ hai đô la hóa chính thức góp phần làm tăng kỷ luật ngân sách nhà nước. Với những quốc gia có chính sách tiền tệ độc lập khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt, chính phủ có thể yêu cầu NHTW phát hành tiền để bù đắp thâm hụt. Ngược lại với những quốc gia bị đôla hóa hoàn toàn chính phủ không thể yêu cầu NHTW phát hành tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách do đó để khác phục tình trạng thâm hụt chính phủ nước này phải tiết kiệm chi tiêu đồng thời gia tăng nguồn thu ngân sách. Thứ ba đô la hóa không chính thức góp phần giảm lạm phát. Đôla hóa làm tăng cung ngoại tệ dẫn đến sự giảm giá ngoại tệ. Khi đó giá cả hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài trở nên rẻ hơn dẫn đến mặt bằng giá cả trong nước giảm xuống. 2. Tác động tiêu cực Ngoài sự đánh mất chủ quyền về tiền tệ, vị trí độc tôn của đồng nội tệ bị giảm sút khi ngoại tệ được sử dụng rộng rãi lấn át nội tệ thì đôla hóa còn gây ra nhiều tác động tiêu cực lên những nền kinh tế bị đôla hóa. Chính vì lý do này mà chính phủ và NHTW các nước luôn tìm cách hạn chế và đẩy lùi tình trạng này. Tác động tiêu cực đầu tiên có thể dễ dàng nhận thấy là việc mất đi thu nhập từ thuế in tiền. Đó chính là thu nhập từ việc phát hành tiền được tính bằng chênh lệch giữa chi in tiền, chi phí đưa tiền vào lưu thông so với giá trị hàng hóa mà tiền mua được. Thứ hai, những quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức không có chính sách tiền tệ độc lập khi đó các quốc gia này không thể chủ động trong việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Đối với những nền kinh tế không bị đôla hóa, NHTW có thể thông qua cơ chế điều hành tỷ giá tác động lên xuất nhập khẩu để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Giả sử khi các yếu tố khác không đổi muốn kiềm chế lạm phát, NHTW có thể hút nội tệ trong lưu thông làm cho nôi tệ lên giá so với ngoại tệ (tức làm cho tỷ giá giảm) ngược lại để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo công ăn việc làm, NHTW có thể sử dụng chính sách nội tệ. Trong khi đó, những nước có nền kinh tế đô la hóa chính thức không có quyền chủ động trong việc điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ của họ phụ thuộc hoàn toàn vào chính sách tiền tệ của NHTW nước ngoài. Thứ ba, đô la hóa chính thức tước đi vai trò của NHTW, là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế. Ở những nền kinh tế không bị đô la hóa, khi NHTM gặp khó khăn về thanh khoản, NHTW sẽ cho vay tiền để giải quyết vấn đề đó, tránh dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng, nhưng ở những nền kinh tế bị đôla hóa chính thức, NHTW chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Một khi đã sử dụng hết dự trữ tiền tệ thì không thể phát hành thêm tiền để giúp đỡ NHTM. Vì vậy, khả năng dẫn tới sự sụp đổ của hệ thống NHTM trong nước là hoàn toàn có thể xảy ra. Thứ tư, đối với những nền kinh tế bị đô la hóa không chính thức, ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong thanh toán, cất trữ, do đó sẽ có một lượng ngoại tệ lớn trôi nổi trên thị trường, nằm ngoài tầm kiểm soát của NHTW. Vì vậy, việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán từ đó đưa ra các quyết định về tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông sẽ kém chính xác và kịp thời. Thứ năm, cung cầu ngoại tệ thường xuyên biến động. Những thay đổi về lãi suất trong nước từ nước ngoài có thể gây ra sự dịch chuyển lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác hay từ nơi này sang nơi khác. Khi lãi suất có sự thay đổi theo hướng nắm giữ ngoại tệ có lợi hơn, người dân sẽ mang nội tệ đổi lấy ngoại tệ, làm cho cầu ngoại tệ tăng, ngược lại, khi nắm giữ nội tệ có lợi hơn, người dân sẽ mang ngoại tệ đổi lấy nội tệ, dẫn tới cầu nội tệ tăng. Điều này sẽ gây khó khăn cho NHTW trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Ngoài ra, đối với các NHTM có tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ cao, khi có biến động, người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ đó đã được ngân hàng cho vay, và NHTW cũng không thể hỗ trợ được do dự trữ ngoại hối còn mỏng có thể gây ra những bất ổn trong hệ thống NHTM trong nước. CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ ĐÔLA HÓA TẠI VIỆT NAM I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM. Việt Nam là một trong những nền kinh tế bị đôla hóa không chính thức. Đôla hóa của Việt nam bao gồm: đôla hóa thay thế tài sản, đôla hóa phương tiện thanh toán, đôla hóa trong niêm yết giá hàng hóa dịch vụ. Tình trạng đôla hóa ở Việt Nam được đánh giá là khá trầm trọng. Một trong những công cụ đo lường mức độ đôla hóa là tỷ lệ tiến gửi bằng ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán FCD/M2. Tuy nhiên tỷ lệ này vẫn chưa phản ánh được một cách chính xác nhất về tình trạng đôla hóa của Việt Nam do nó chỉ đo lường được lượng USD gửi trong các ngân hàng mà không thể thấy được khối lượng lớn USD dân chúng nắm giữ. Bảng 1: Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán (FCD/M2) Thờigian Tỷ lệ % 1989 28,2 1990 32,4 1991 41,2 1992 30,6 1993 22,9 1994 22,2 1995 21,0 1996 20,3 1997 23,6 1998 24,6 1999 26,1 2000 26,9 2001 31,7 2002 28,4 2003 23,6 2004 24,3 2005 23,0 2006 21,6 6/2007 20,2 (Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007) Theo thống kê trên, tỷ lệ đôla hóa của Việt Nam luôn ở mức trên 20%, con số này cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Indonesia, Malaysia, Thái lan… (chỉ khoảng từ 7-10%). II. THỰC TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN 1. Giai đoạn trước khi mở cửa. Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ rất thấp, kinh tế đối ngoại kém phát triển, hệ thống ngân hàng còn sơ khai. Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành kèm theo Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 7 năm 1963 của Chính phủ nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ trong nước (kể cả việc cất trữ, mang theo người), mọi giao dịch trong nước phải thực hiện bằng VND. Việc chuyển đổi VND sang ngoại tệ được thực hiện theo kế hoạch với cơ chế đa tỷ giá (tỷ giá mậu dịch, tỷ giá phi mậu dịch) do Nhà nước công bố. Xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế chủ yếu theo các Hiệp định song biên - đa biên, đồng tiền sử dụng trong quan hệ thanh toán đối ngoại thường là đồng Rúp chuyển nhượng và đồng Nhân dân tệ mậu dịch. Vì vậy, khả năng chuyển đổi của VND rất hạn chế. Về cuối giai đoạn xuất hiện dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế, VND suy yếu mạnh sau thất bại của chính sách giá - lương - tiền, lạm phát tới 3 con số và liên tục có các đợt tăng giá vàng. Trong dân cư xuất hiện việc mua vàng, ngoại tệ để tích trữ, đầu cơ giá và sử dụng làm phương tiện thanh toán. Tuy nhiên mức độ đôla hóa là không đáng kể do độ mở của nền kinh tế còn rất nhỏ. 2. Giai đoạn bắt đầu mở cửa đến khủng hoảng tài chính khu vực Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đôla Mỹ trong giao dịch buôn bán..., chỉ bắt đầu được chú ý đến từ cuối những năm 80 đầu những năm 90, khi mà nền kinh tế nước ta phải đối mặt với lạm phát nặng nề, tiền đồng trở nên mất giá so với USD dẫn đến tâm lý người dân chuyển sang tích trữ USD hoặc vàng thay cho nội tệ. Bảng 2: Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam Năm Lạm phát(%) Năm Lạm phát(%) 1986 774,7 2000 -0,6 1987 223,1 2001 0,8 1988 393,8 2002 1,5 1989 37,7 2003 3,0 1991 64,6 2004 7,71 1992 17,36 2005 8,29 1996 4,5 2006 7,48 1997 3,6 2007 8,3 1998 7,8 2008 22,97 1999 0,1 2009 6,88 (Nguồn: Tổng cục thống kê, Ngân hàng Nhà nước và IMF) Mặt khác, do thấy được điểm yếu về giá trị của tiền đồng, nên người dân chuyển sang gửi ngắn hạn nội tệ thay cho việc gửi dài hạn, điều này đã ảnh hưởng lớn tới lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế đang trong giai đoạn kiến thiết. Trước hoàn cảnh đó, Chính phủ đã ban hành luật đầu tư năm 1987 hoan nghênh và khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào Việt Nam, đồng thời cho phép các ngân hàng được nhận tiền gửi bằng đồng đôla. Chính sách này đã làm tăng tỉ lệ đôla hóa của nền kinh tế do đã tác động làm tăng nguồn đôla chảy vào trong nước thông qua các kênh như FDI, viện trợ nước ngoài và lượng kiều hối Đến năm 1991, sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và một số quốc gia khác, cùng với những chính sách mở cửa của Nhà nước đã làm lượng USD vào Việt Nam tăng mạnh. Bên cạnh đó, tỷ lệ lạm phát lên tới đỉnh điểm 67.5% và tỷ giá USD/VND tăng vọt (từ 5,133VND/USD lên 9,274VND/USD). Điều này khiến cho tình trạng đôla hoá tăng lên mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng USD. Trước tình trạng trên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đôla hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996. Mặt khác, thời gian này lạm phát chỉ ở mức trên dưới 10%, tỷ giá biến động ít, việc nắm giữ VND đã tỏ ra có lợi hơn nên mức độ đôla hóa giảm mạnh, tỷ lệ FCD/M2 năm 1997 ở mức 23,6%. Đồng thời, Chính phủ cũng bắt đầu hạn chế việc thanh toán bằng ngoại tệ, xoá bỏ các điểm bán hàng thu ngoại tệ, tăng cường các
Luận văn liên quan