Đề tài Phân tích thị trường vàng Việt Nam thời gian vừa qua

Chức năng bao quát và sức hấp dẫn mạnh mẽ của vàng là một phương tiện đầu tư, có được nền tảng cơ sở là nguồn cung và nguồn cầu năng động của thị trường vàng. Vàng mang tính đặc biệt bởi nó vừa là tài sản dạng hàng hóa vừa là tài sản dưới dạng tiền tệ. Bởi vì nó thực sự không thể tiêu hủy được, tất cả vàng thuộc loại khoáng sản vẫn tồn tại trên mặt đất dưới dạng này hoặc dạng khác và theo lý thuyết đa số trữ lượng vàng trên mặt đất thì dễ khai thác. Điều này có nghĩa là việc khai thác vàng khá đơn giản, chỉ là chuyện tái chế lại từ dạng này sang dạng khác.Đây là một trong những lý do tại sao giá vàng trong lịch sử thường ít biến động hơn giá những hàng hóa thông thường khác. Nó cũng giải thích tại sao thị trường vàng trước đây nhìn chung là ổn định. GFMS Ltd ước tính cuối năm 2006 trữ lượng vàng trên mặt đất có khối lượng xấp xỉ 158 000 tấn, trong đó đã khai thác 66% từ năm 1950. Trữ lượng vàng được nắm giữ trong các cơ quan có thẩm quyền bao gồm ngân hàng trung ương, những cơ quan chính phủ như Monetary Authority của Singapore, và những tổ chức siêu quốc gia như Quỹ tiền tệ thế giới, ngân hàng trung ương Châu Âu.

pdf14 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4201 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích thị trường vàng Việt Nam thời gian vừa qua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH TẾ VI MÔ II 1 I. Thị trường vàng: Chức năng bao quát và sức hấp dẫn mạnh mẽ của vàng là một phương tiện đầu tư, có được nền tảng cơ sở là nguồn cung và nguồn cầu năng động của thị trường vàng. Vàng mang tính đặc biệt bởi nó vừa là tài sản dạng hàng hóa vừa là tài sản dưới dạng tiền tệ. Bởi vì nó thực sự không thể tiêu hủy được, tất cả vàng thuộc loại khoáng sản vẫn tồn tại trên mặt đất dưới dạng này hoặc dạng khác và theo lý thuyết đa số trữ lượng vàng trên mặt đất thì dễ khai thác. Điều này có nghĩa là việc khai thác vàng khá đơn giản, chỉ là chuyện tái chế lại từ dạng này sang dạng khác. Đây là một trong những lý do tại sao giá vàng trong lịch sử thường ít biến động hơn giá những hàng hóa thông thường khác. Nó cũng giải thích tại sao thị trường vàng trước đây nhìn chung là ổn định. GFMS Ltd ước tính cuối năm 2006 trữ lượng vàng trên mặt đất có khối lượng xấp xỉ 158 000 tấn, trong đó đã khai thác 66% từ năm 1950. Trữ lượng vàng được nắm giữ trong các cơ quan có thẩm quyền bao gồm ngân hàng trung ương, những cơ quan chính phủ như Monetary Authority của Singapore, và những tổ chức siêu quốc gia như Quỹ tiền tệ thế giới, ngân hàng trung ương Châu Âu... Vàng thỏa mãn nhu cầu hằng năm bao gồm cả vàng khai thác và vàng tái chế được khai thác từ những năm trước. Biểu đồ giữa bên trên chỉ ra rằng qua hơn 5 năm, vàng tái chế nhiều từ thị trường trang sức, chiếm ¼ nguồn cung vàng, đứng sau là lượng vàng được bán ra từ ngân hàng trung ương. Nhu cầu hằng năm về vàng có ba loại chính, lớn nhất là nhu cầu từ thị trường trang sức khoảng 44 tỷ USD năm 2006. Nhu cầu công nghiệp vê vàng lớn nhất là cho lĩnh vực điện tử,nhưng cũng bao gồm lĩnh vực nha khoa và một số ngành công nghiệp khác và đáp ứng cho việc trang hoàng. Cuối cùng trong nguồn cầu là nhu cầu đầu tư. Bởi vì một phần quan trọng trong nhu cầu đầu tư là được xử lý trên thị trường OTC và không dễ dàng để định lượng được tổng giá trị giao dịch. Các hoạt động đầu tư thể hiện trên biều đồ trên bao gồm đầu tư cho vàng thỏi, tiền đồng, huy chương và tiền đồng giả, “ đầu tư nhỏ lẻ khác” và đầu tư trong việc trao đổi giao dịch quỹ vàng và sản phẩm có liên quan. Nhu cầu đầu tư tăng mạnh vào năm 2006, tăng 8% số lượng và hơn 45% về giá trị USD thu được so với năm trước. Năm 2006 Nam Phi là nước sản xuất vàng lớn nhất thế giới, với 292 tấn chiếm 12% tổng sản lượng, theo sau là Mỹ với 252 tấn , chiếm hơn 10% tổng sản lượng, kế đó là Trung Quốc hơn 247 tấn. Điểm đặc biệt nổi lên trong thập niên vừa qua là Indonesia, trong năm 1992 chỉ sản xuất 2 tấn nhưng đến năm 2005 là hơn 114 tấn, nổi bật là mỏ Grasberg, là nơi sản xuất vàng lớn nhất thế giới. Và Peru sản xuất tăng từ KINH TẾ VI MÔ II 2 18 tấn trong năm 1992 lên 203 tấn trong năm 2006, với một nửa đến từ mỏ Yanacocha của Newmont, nơi sản xuất vàng lớn thứ 2 thế giới trên mực nước biển 14.000 feet ở dãy Andes. Nhiều nước sản xuất vàng trên thế giới lại là những nước nghèo bị mắc nợ nhiều của Ngân Hàng Thế Giới. Đối với một vài quốc gia vàng chiếm một tỷ lệ đáng kể trong xuất khẩu của họ,ví dụ như Ghana và Mali vàng là hàng hóa xuất khẩu đứng thứ ba.. Tóm lại vàng nổi bật trong vai trò là phương tiện cất trữ. Thị trường vàng hình thành dựa trên nguồn cầu và nguồn cung vàng. Nguồn cung bao gồm vàng khoáng sản được khai thác mới và vàng tái chế. Nguồn cầu gồm nhu cầu cho việc làm trang sức, công nghiệp, trang hoàng và đầu tư. Trên cơ sở cung và cầu vàng sẽ hình thành giá vàng, đồng thời cung, cầu vàng cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. II.Các nguồn cung và cầu vàng: Nguồn cung: a. Vàng khai thác Tổng số lượng vàng đã khai thác trong lịch sử xấp xỉ 158 000 tấn, trong đó 66% là được khai thác từ năm 1950. Xu hướng phát triển sản xuất hằng năm bây giờ đã ổn định, bởi vì xu hướng tiêu dùng đã chậm lại vào cuối những năm 1990. Những nhà phân tích độc lập tin rằng khai thác vẫn sẽ duy trì ổn định trong một vài năm tới và nếu có thay đổi giảm xuống thì không đáng kể. Vàng được khai thác sâu nhất hiện tại là mỏ Savuka, khai thác trên mép tây bắc của Witwatersrand Basin-Nam Phi. Hoạt động khai thác ở độ sâu 3.774m.Điều này có nghĩa là việc khai thác vàng rất khó khăn và tốn kém, đòi hỏi công nghệ tiên tiến. Chi phí sản xuất thay đổi mạnh tùy theo mỏ tự nhiên (hầm) hay khai thác dưới mặt đất và độ sâu bao nhiêu, trữ lượng quặng và lớp khai thác. b. Ngân hàng trung ương Ngân hàng trung ương và những tổ chức xuyên quốc gia nắm giữ 1/5 trữ lượng vàng trên mặt đất như tài sản dự trữ, nhưng đang giảm đều qua thời gian. 28 500 tấn trong trữ lượng trên mặt đất trong biểu đồ bên trên gồm vàng sở hữu bởi ngân hàng trung ương và một phần bên ngoài là cho vay với con số cao hơn là không đáng kể. Người bán buôn, đóng góp trung bình 527 tấn vào dòng chảy cung ứng hằng năm từ năm 2002 đến năm 2006. Kể từ tháng 9 năm 1999, phần lớn việc buôn bán này được kiểm KINH TẾ VI MÔ II 3 soát bởi Central Bank Agreement on Gold (CBGA). CBGA mới đã kiểm soát giai đoạn từ tháng 9-2004 đến tháng 9-2009 đã được tuyên bố thành lập vào tháng 3-2004. Thông qua việc mua bán, Ngân hàng trung ương cũng ảnh hưởng đến thị trường vàng thông qua việc cho vay của họ, trao đổi và những hoạt động khác. Họ giữ vai trò người cho vay vàng chính (mặc dù không phải là duy nhất) trên thị trường. Gần đây các Ngân hàng trung ươong phải báo cáo việc nắm giữ vàng của họ hằng tháng cho IMF và được phát hành hàng tháng trong ấn bản Thống kê tài chính quốc tế của IMF. Do đó những thay đổi trong việc nắm giữ vàng được giám sát. Tuy nhiên một số ít Ngân hàng trug ương có nắm giữ vàng không cho rằng là phần tích trữ của cơ quan nên không báo cáo. Thêm vào đó cũng có một phần hoặc hầu hết cơ quan không được báo cáo. Do đó giám sát việc nắm giữ này vẫn rất khó khăn. c. Vàng tái chế Vàng thực sự không thể tiêu hủy được, tất cả vàng đã khai thác vẫn tồn tại. Nó cũng dễ phục hồi được từ hầu hết vàng đã qua sử dụng và có khả năng nấu chảy ra, lọc và sử dụng lại. Điều đó cho phép cung vàng tái chế, là một bộ phận quan trọng trên thị trường vàng vốn rất năng động Hầu hết vàng tái chế thông thường có nguồn gốc từ trang sức. Một lượng nhỏ là từ những thiết bị điện tử được thu lại và cả từ vàng thỏi và tiền đồng. Việc cung ứng kim loại tái chế phụ thuộc rất lớn vào tình hình nền kinh tế và biến động giá vàng. Vàng cũng có thể bán đổi lấy tiền mặt cả khi người sở hữu vàng cần tiền hay nếu như người đó muốn hưởng lợi nhuận qua chênh lệch giá vàng. Điều này cho phép nguồn cung vàng tái chế gia tăng trong thời gian nền kinh tế ảm đạm. 2. Nguồn cầu Vàng: a. Nhu cầu cho trang sức Trang sức chiếm nhu cầu lớn nhất chiếm hơn 70% nhu cầu về vàng, đạt giá trị khoảng 44 tỷ USD theo giá vàng bình quân năm 2006. Có cả sự khác biệt và tương đồng trong việc mua bán vàng giữa các nước. Nhu cầu chịu ảnh hưởng nhiều từ sự khác biệt văn hóa và thành phần xã hội, nghiên cứu thị trường cũng chỉ ra cảm nhận về vàng là tương tự nhau và quan điểm cốt lõi về vàng qua những thị trường là khác nhau. Như mua vàng trang sức thường được kết hợp với một dịp đặc biệt nào đó như Ngày Valentine, ngày cưới, ngày kỉ niệm và sinh nhật trên khắp thế giới. KINH TẾ VI MÔ II 4 Nghiên cứu thị trường chịu trách nhiệm chỉ ra có nhiều khúc thị trường ở khắp các nước mặc dù mỗi nước thì tầm quan trọng của mỗi khúc khác nhau. Mua trang sức thì có mùa, thường là vào lễ Giáng sinh, ngày 1-5, những lễ hội cuối năm khi mà trang sức trở thành món quà tặng phổ biến. Ngày quốc khánh và Tết cổ truyền ở Trung Quốc cũng là dịp lớn để mua sắm trang sức. Năm 2006,thị trường có nhu cầu tiêu thụ trang sức lớn nhất là Ấn Độ (khoảng 522 tấn), vàng trang sức chủ yếu được sử dụng cho lễ hội và đám cưới, vàng truyền thống là 22 carat. Nhu cầu về trang sức ở Ấn Độ nhạy cảm mạnh mẽ với giá vàng, có ảnh hưởng mạnh đến nguồn cầu về vàng. Phần lớn vàng sử dụng ở đây là nhập khẩu nhưng hầu hết trang sức thì được làm ra ngay trong nước. Thực vậy, Ấn Độ có nền công nghiệp nữ trang phồn thịnh và là nước xuất khẩu chính. Mỹ là thị trường có cầu về vàng trang sức đứng thứ hai sau Ấn Độ trong năm 2006 khoảng 306 tấn). Dịp tiêu thụ trang sức mạnh nhất là Giáng sinh, những lễ hội cuối năm, ngoài ra còn có lễ Valentine và Ngày của Mẹ, có thể là vàng 14, 18 hoặc 10 carat. b. Nhu cầu trong công nghiệp Nhu cầu về vàng trong công nghiệp và nha khoa chiếm khoảng 12% nhu cầu về vàng, khoảng 400 tấn từ năm 2002 đến 2006. Hơn một nửa nhu cầu của công nghiệp và nha khoa (khoảng 7%) là sử dụng vàng trong những bộ phận điện tử thích hợp chịu nhiệt độ cao và dẫn nhiệt, dẫn điện và điểm nổi bật của vàng là chống lại sự ăn mòn. Nhu cầu vàng trong lĩnh vực điện tử tăng trong những thập niên vừa qua nhưng nó cũng dao động tùy vào GDP toàn cầu và sự phát triển của ngành công nghiệp. Hầu hết vàng sản xuất cho những linh kiện điện tử là từ Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Những công ty chuyển nhà máy đến đó để có ưu thế về chi phí cơ bản thấp hơn thì đang giành phần lớn thị phần. Nhu cầu tương lai trong công nghiệp về vàng thì quan trọng ngày càng rõ hơn khi những thiết bị điện tử tổng quát và hàng hóa tiêu dùng tiếp tục sử dụng vàng trong những bộ phận cấu thành. Tác dụng của vàng đã được biết đến từ lâu trong lịch sử, có thể dùng trong sinh học, kháng lại vi khuẩn xâm nhập và ăn mòn, do đó được sử dụng thành công trong cơ thể con người. Trong nha khoa nhu cầu sử dụng vàng chiếm ổn định khoảng 2%. Nhật, Mỹ, Đức là 3 nước dẫn đầu trong việc chế tạo hợp kim nha khoa. Những nghiên cứu trong những thập niên qua không phản ánh tiềm năng thực sự sử dụng vàng đang nhiều hơn trong công nghiệp luyện kim. Vàng còn được sử dụng như chất xúc tác ví dụ như chất xúc tác trong phòng đốt nhiên liệu. Một số công ty đã biết phát triển KINH TẾ VI MÔ II 5 công nghiệp chất xúc tác dựa trên vàng và điều này có thể làm dẫn đến nhu cầu mới về vàng trong ngành công nghiệp luyện kim. Trong lĩnh vực công nghệ nano phát triển mau lẹ thì vàng được sử dụng cũng khá nhiều như trong việc chế tạo latop và điện thoại di động. Sử dụng vàng trong việc phủ lên chất siêu dẫn cũng có thể tạo ý nghĩa quan trọng trong nhu cầu về vàng trong công nghiệp. c. Nhu cầu vàng trong đầu tư Vàng sử dụng cho đầu tư đã có lâu trong lịch sử và được bắt nguồn từ vai trò của nó như vật nắm giữ an toàn, dự trữ giá trị và tài sản tiền tệ. Thời gian gần đây, vai trò của vàng được biết như là loại hình đầu tư hoàn hảo, đầu tư vàng như tiền tệ và bảo đảm trước lạm phát, cũng được nhận ra. Nhiều trang sức được mua ở Châu Á và Trung Đông cũng được coi như một kênh đầu tư hay mang tính tiết kiệm, dự trữ. Người đầu tư chuyên nghiệp có xu hướng đưa ra sự khác biệt giữa đầu tư nhỏ lẻ (những cá nhân mua bán) và đầu tư có tính chất tổ chức (mua bán bởi những quỹ đầu tư hay những tổ chức, tập đoàn khác). Trong thực tế khó phân biệt giữa hai loại này, thực tế có một vài nhà đầu tư cá nhân nắm giữ một lượng đáng kể. Trữ lượng nắm giữ đầu tư, hay đầu tư cá nhân chiếm khoảng 16% tổng trữ lượng vàng. Hơn 5 năm qua, một “cuộc cách mạng nhỏ” đã xảy ra trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới là nhu cầu đầu tư tăng vọt từ 4% tổng nhu cầu sử dụng cuối cùng năm 2000 lên 19% trong năm 2006. Khi thị trường OTC hoạt động, lượng giao dịch trên tài khoản luôn ít hơn với thực tế, một ước chừng tổng cộng khoảng 13.2 tỷ USD của những nhà đầu tư tiền đã tìm thấy qua cách đầu tư vào vàng trong năm 2006. Sự thu hút đầu tư vàng có liên quan đến các yếu tố: sự thay đổi của đôla và lạm phát kỳ vọng, sự thay đổi của chính trị và tăng sự thừa nhận vai trò của vàng có thể đầu tư đa dạng. III. Đặc điểm của thị trường vàng: Biến động rất nhanh do giá vàng chịu ảnh hưởng lớn từ giá dầu thế giới và diễn biến của thị trường chứng khoán. Trong khi giá dầu thế giới lại phụ thuộc nhiều về cung (Khu vực khai thác và xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới là vùng Trung Đông mà các nước khu vực này thường dự trữ tài sản dưới dạng vàng, do đó chính nguồn cung dầu mỏ và nguồn cầu về vàng của khu vực Trung Đông quá lớn đã ảnh hưởng đến giá cả 2 loại hàng hóa này nên nhiều nhà đầu tư thường nhìn vào diễn biến giá dầu trong hiện tại và diễn biến được dự đoán trong tương lai của dầu để từ đó dự đoán cho xu hướng dao động của KINH TẾ VI MÔ II 6 vàng) và cầu (thị trường cầu lớn về dầu là Mỹ). Còn thị trường chứng khoán thì khi giá chứng khoán giảm thì thường giá vàng tăng và ngược lại, vì vàng mua bán chủ yếu là cho mục đích tích trữ và đầu tư. Biến động rất nhanh do giá vàng chịu tác động bởi các yếu tố : Yếu tố tâm lý: Trên thị trường thế giới, khi giá vàng tăng các hoạt động bán vàng tăng mạnh, và ngược lại. Nhưng trên thị trường Việt Nam, khi giá vàng tăng cao mọi người ào ạt mua vàng và khi giá vàng xuống thấp thì lại bán ra nhanh chóng. Giá dầu (tác động cùng chiều). Giá dầu thế giới phụ thuộc nhiều về cung và cầu.. Khu vực khai thác và xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới là vùng Trung Đông mà các nước khu vực này thường dự trữ tài sản dưới dạng vàng, do đó chính nguồn cung dầu mỏ và nguồn cầu về vàng của khu vực Trung Đông quá lớn đã ảnh hưởng đến giá cả 2 loại hàng hóa này nên nhiều nhà đầu tư thường nhìn vào diễn biến giá dầu trong hiện tại và diễn biến được dự đoán trong tương lai của dầu để từ đó dự đoán cho xu hướng dao động của vàng.Thị trường cầu lớn về dầu là Mỹ nên sẽ có tác động mạnh tới gía dầu từ đó ảnh hưởng lên giá vàng. Thị trường chứng khoán (tác động ngược chiều). Vàng và chứng khoán là hai kênh đầu tư lớn trên thị trường tài chính. Khi chứng khoán mất điểm, nhiều Nhà đầu tư sẽ chuyển sang kênh vàng làm giá vàng tăng và ngược lại. Gía các loại ngoại tệ mạnh như USD, GBP Lạm phát kỳ vọng: nếu niềm tin là lạm phát với mức kỳ vọng lớn thì giá vàng có thể sẽ tăng do mọi người đổ xô mua vàng. Thường hoạt động trên thị trường vàng là hoạt động đầu cơ tích trữ vì vàng được coi là vật bảo đảm giá trị cao khi xảy ra lạm phát, được coi là phương án đầu tư an toàn. IV. Diễn biến thị trường vàng thế giới và Việt Nam những năm gần đây: Diễn biến giá vàng trong khoảng 2001 - 2008: Giá vàng thế giới: Bắt đầu từ 2001, thời điểm khởi đầu của chu kỳ tăng giá vàng, đặc biệt là từ sau vụ khủng bố 11-9 cho đến nay. Đây là chu kỳ tăng giá dài nhất trong vòng 3 thập kỷ qua. Nếu như mức tăng giá vàng thế giới trong giai đoạn 1991 – 1995 và 1996 – 2000 giảm lần lượt là -1,44% và -29,65% thì giai đoạn 2001 – 2005 tăng mạnh lên 90,04%. Năm 2006, thị trường kim loại quý vẫn liên tục lên cơn sốt tăng giá và liên tục lập những kỷ lục mới. Trong phiên giao dịch ngày 12/5/2006, giá vàng đã có lúc tăng lên KINH TẾ VI MÔ II 7 mức cao kỷ lục 731 USD/ounce – mức cao nhất kể từ tháng 1/1980. Kỉ lục cho đến nay (9/2008) là mức giá trên 1000 USD/OZ vào ngày 16/3/200 Giá vàng trong nước: Trong điều kiện nền kinh tế nước ta nói chung và thị trường vàng nói riêng hội nhập càng sâu rộng với thế giới và trong điều kiện thông tin hiện đại nên giá vàng trong nước theo nguyên tắc “bình thông nhau” với giá vàng thế giới, đồng thời giá vàng ở nước ta cũng phản ánh tức thì, cùng chiều và theo sát giá vàng trên thị trường thế giới. Nếu như mức tăng giá vàng trong nước giai đoạn 1996 – 2000 là -6,16% thì giai đoạn 2001 – 2005 tăng mạnh lên 102,07%. Giá vàng trong nước ngày 17/3/2008 đã đến mức 1,925 triệu đồng/chỉ, sau đó giảm mạnh xuống 1,760 triệu đồng/chỉ vào ngày 25/4/2008. Ngày 16/7/2008 lại lập kỉ lục cũ là 1,928 triệu đồng/chỉ rồi tiếp tục giảm. Sự biến động giá vàng gần đây (1 năm) cho thấy rủi ro hiện lên khá rõ, biến động giá vàng quá cao. Việc giá vàng tăng cao đã gây nên hội chứng tâm lý làm nhiều người dân đổ xô đi mua vàng, một số đã rút tiền tiết kiệm để mua vàng. Tuy nhiên, trong những ngày này, trước sự trồi sụt thất thường của giá vàng thế giới đã khiến không ít người dân bị thua thiệt nghiêm trọng do đầu tư theo “phong trào” – giá lên thì đổ xô đi mua, giá hạ thì ào ạt bán. Đây cũng là một nguyên nhân kỳ vọng tác động đẩy giá vàng trong nước tăng cao ngoài nguyên nhân chính là do giá vàng thế giới biến động. 2. Nguyên nhân làm tăng giá vàng: a. Về phía cầu: Do nhu cầu đầu cơ của thị trường tăng: Trước nhu cầu vàng tăng cao, theo Hội đồng Vàng thế giới, nguồn cung hiện chỉ đáp ứng được 1/4 nhu cầu thị trường; trong đó lại có không ít số lượng vàng bị găm giữ lại, chưa bán, chờ giá cao hơn nữa. Do sự lên giá của dầu thô trên thị trường thế giới: Giá dầu có xu hướng tăng trong suốt mấy năm qua và hiện nay giá dầu thế giới đã leo lên trên 100 USD/thùng đã đẩy giá cả hàng hóa tăng, hệ quả là gia tăng lạm phát, giảm tăng trưởng kinh tế. Lo sợ trước tình hình lạm phát, các nhà đầu tư có xu hướng dịch chuyển đầu tư từ các tài sản khác sang vàng để tìm lợi nhuận cao và an toàn tài sản. Do nhu cầu sử dụng vàng: Đặc biệt là vàng trang sức trong các mùa lễ hội của người Hồi giáo, lễ giáng sinh, mùa cưới và năm mới tại các nước đông dân như Trung Quốc, Ấn Độ... ngày càng tăng. KINH TẾ VI MÔ II 8 Do hàng loạt các sự kiện chính trị giữa Mỹ và các nước hồi giáo, Triều Tiên cùng với thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân vãng lai của Mỹ liên tục gia tăng và kinh tế Mỹ chưa có dấu hiệu phát triển bền vững khiến đồng USD giảm giá mạnh khiến vàng và một số ngoại tệ khác tăng cao trên thị trường thế giới. b. về phía cung: Các ngân hàng trung ương (NHTƯ) trên thế giới hạn chế bán vàng. Sản lượng vàng khai thác của thế giới tăng chậm, có nước giảm do chi phí sản xuất cao trước tình hình giá vàng giảm 10 năm liên tục trong suốt giai đoạn 1990 – 2000 Như vậy, nguồn cung vàng bị hạn chế trong khi cầu về vàng tăng mạnh trước tình hình căng thẳng về chính trị và sự suy yếu của đồng USD đã làm cho giá vàng tăng mạnh và liên tiếp lập những kỷ lục mới. Tác động của giá vàng đối với Việt Nam: Do vàng không nằm trong rổ hàng hoá tiêu dùng CPI nên đa số người dân bình thường không bị ảnh hưởng bởi giá vàng. Dĩ nhiên hiện nay CPI vẫn tăng, nhưng không có sự tác động của giá vàng. Tuy nhiên, việc giá vàng tăng trong thời gian qua đã có tác động mạnh tới tâm lý của người dân. Đã có thời điểm người dân đổ xô đi mua vàng khiến giá vàng trong nước tăng mạnh cao hơn giá thế giới. Thị trường bất động sản, chứng khoán thời gian qua diễn ra khá trầm lắng. Giá vàng tăng cao khiến nhà đầu tư tin tưởng chuyển vốn sang vàng. Diễn biến giá vàng từ năm 2010 – 2011 Giá vàng trên thị trường thế giới đã tăng trên 8% trong năm 2011 và tăng 32% trong vòng 1 năm qua. Tại Việt Nam, giá vàng cũng tăng rất cao trong những tháng gần đây, điều này đòi hỏi cần nhanh chóng có những giải pháp để khắc phục và bình ổn giá vàng lâu dài. Nguyên nhân giá vàng thế giới tăng cao Lý giải về nguyên nhân giá vàng tăng cao trên thế giới, các nhà nghiên cứu kinh tế đã nêu lên một số lý do chủ yếu; trong đó nguyên nhân đầu tiên và lớn nhất chính là lạm phát toàn cầu. Bởi cứ mỗi lần xảy ra lạm phát toàn cầu thì mọi người sẽ coi vàng là một trong những nơi đầu tư an toàn nhất. Một nguyên nhân nữa, đó là đồng USD của Mỹ, quốc gia KINH TẾ VI MÔ II 9 có nền kinh tế lớn mạnh nhất thế giới đang trở nên yếu. Đồng USD trở nên yếu khiến người mua càng mua nhiều vàng hơn. Các nhà phân tích cho rằng đồng USD chưa thể sớm hồi phục ngay, vì vậy giá vàng vẫn tiếp tục tăng. Một nguyên nhân khác, hiện châu Âu vẫn có tốc độ hồi phục khá chậm sau suy thoái. Vấn đề khủng hoảng nợ tại châu Âu vẫn hiện diện và nó có khả năng lan sang các quốc gia có nền kinh tế lớn như Mỹ và Nhật. Khả năng này càng làm nhu cầu đầu tư vào vàng nhiều hơn, cũng đồng nghĩa với việc giá vàng ngày càng càng cao hơn. Nhiều nước trên thế giới và trong khu vực đã tập trung mua vàng. Riêng tại Nga, trong quý 1 năm 2011, Nga đã mua ròng 8 tấn. Tại châu Á, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Hàn Quốc… cũng đang tích cực mua vàn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthi truong vang.pdf
  • pdfbia thi truong vang.pdf
Luận văn liên quan