Đề tài Phân tích tình hình cán cân thanh toán quốc tế của Việt nam giai đoạn 2005–2010

Các quốc gia không thể tồn tại và phát triển nếu chỉ dựa vào các giao dịch , trao đổi hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động văn hóa, khoa học kỹ thuật và xã hội của bản thân mình. Trong nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa các quốc gia là rất phong phú và đa dạng, bao gồm: thương mại đầu tư, du lịch, văn hóa chính trị Sự khác biệt về địa lý, khí hậu môi trường và trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và nguồn nhân lực cũng như các yếu tố về xã hội học giữa các quốc gia làm cho lợi thế so sánh giữa các quốc gia không thể bằng nhau, nước này có lợi thế về mặt này thì bất lợi về mặt kia và ngược lại. Để tồn tại và phát triển một cách thuận lợi, các quốc gia phải tiến hành trao đổi kinh tế thương mại với nhau trên cơ sở mang cái mình có lợi thế trao đổi lấy cái mình chưa có lợi với nước khác. Hệ quả của các mối quan hệ này dẫn đến các nước phải chi trả lẫn cho nhau, nghĩa là một quốc gia luôn phát sinh một khoản thu, chi với các nước khác. Và để theo dõi, phân tích các khoản thu chi này, từng quốc gia đã lập một bảng cân đối gọi là Cán cân thanh toán quốc tế hay bản cân đối thu chi quốc tế. Các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt nam nói riêng cũng không nằm ngoài các mối quan hệ thương mại quốc tế nói trên. Đặc biệt là , từ sau khi gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới – WTO thì sự cần thiết của Cán cân thanh toán Việt nam ngày càng rõ ràng hơn. Đóng vài trò là một hàn thử biểu đo lường sức khỏe nền kinh tế nước nhà so với thế giới, thể hiện rõ ràng và chi tiết tình hình cán cân vãng lai (cán cân xuất – nhập khẩu), cán cân vốn, các kênh đầu tư trực tiếp, gián tiếp của nước ngoài so với Việt nam, và ngược lại, các mức tín dụng thuộc khu vực nước nhà tình hình thặng dư hay thâm hụt sau một năm tài chính.

doc33 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 9043 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình cán cân thanh toán quốc tế của Việt nam giai đoạn 2005–2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời mở đầu Phần I. Cơ sở lý thuyết về cán cân thanh toán quốc tế 3 1. Những khái niệm cơ bản 3 2. Các bộ phận của cán cân thanh toán 2.1. Cán cân vãng lai 4 2.1.1. Cán cân thương mại 4 2.1.2. Cán cân dịch vụ 4 2.1.3. Cán cân thu nhập 5 2.1.4. Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều 5 2.2. Cán cân vốn 6 Phần II. Phân tích tình hình BOP của Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 1. Cán cân vãng lai (Current Account CA) 8 1.1.Cán cân thương mại (TB) 10 Cán cân dịch vụ (SE) 14 Cán cân thu nhập (IC) 15 Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều (Tr) 15 Cán cân vốn (Capital Balance – K) 18 2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 19 2.2.Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) 21 2.3.Tín dụng thuộc khu vực nhà nước (ODA) 23 Phần III: Nguyên nhân và giải pháp khuyến nghị 1. Nguyên nhân: 24 2. Giải pháp 31 2.1. Giải pháp trong ngắn hạn 31 2.2. Giải pháp trong dài hạn 32 Kết luận Tài liệu tham khảo Lời nói đầu Các quốc gia không thể tồn tại và phát triển nếu chỉ dựa vào các giao dịch , trao đổi hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động văn hóa, khoa học kỹ thuật và xã hội của bản thân mình. Trong nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa các quốc gia là rất phong phú và đa dạng, bao gồm: thương mại đầu tư, du lịch, văn hóa chính trị …Sự khác biệt về địa lý, khí hậu môi trường và trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và nguồn nhân lực cũng như các yếu tố về xã hội học giữa các quốc gia làm cho lợi thế so sánh giữa các quốc gia không thể bằng nhau, nước này có lợi thế về mặt này thì bất lợi về mặt kia và ngược lại. Để tồn tại và phát triển một cách thuận lợi, các quốc gia phải tiến hành trao đổi kinh tế thương mại với nhau trên cơ sở mang cái mình có lợi thế trao đổi lấy cái mình chưa có lợi với nước khác. Hệ quả của các mối quan hệ này dẫn đến các nước phải chi trả lẫn cho nhau, nghĩa là một quốc gia luôn phát sinh một khoản thu, chi với các nước khác. Và để theo dõi, phân tích các khoản thu chi này, từng quốc gia đã lập một bảng cân đối gọi là Cán cân thanh toán quốc tế hay bản cân đối thu chi quốc tế. Các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt nam nói riêng cũng không nằm ngoài các mối quan hệ thương mại quốc tế nói trên. Đặc biệt là , từ sau khi gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới – WTO thì sự cần thiết của Cán cân thanh toán Việt nam ngày càng rõ ràng hơn. Đóng vài trò là một hàn thử biểu đo lường sức khỏe nền kinh tế nước nhà so với thế giới, thể hiện rõ ràng và chi tiết tình hình cán cân vãng lai (cán cân xuất – nhập khẩu), cán cân vốn, các kênh đầu tư trực tiếp, gián tiếp của nước ngoài so với Việt nam, và ngược lại, các mức tín dụng thuộc khu vực nước nhà… tình hình thặng dư hay thâm hụt sau một năm tài chính. Với phương thức tiếp cận trên, và xác định được tầm quan trọng của nó, chúng tôi - nhóm sinh viên TCNH thực hiện đề tài: “Phân tích tình hình cán cân thanh toán quốc tế của Việt nam giai đoạn 2005 – 2010”. Trình bày tổng thể, nêu ra những nguyên nhân cũng như đưa ra một vài giải pháp kiến nghị phát triển cán cân thanh toán của Việt nam theo hướng cân bằng có lợi. Trong phạm vi của một đề tài làm nhóm tiểu luận, bài làm sẽ không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Chúng tôi rất vui lòng đón nhận những ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn độc giả để đề tài được hoàn thiện hơn. Qua đây, chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến giảng viên Th.S Nguyễn Thị Thanh Phương, giảng dạy bộ môn thanh toán quốc đã hướng dẫn chúng tôi hoàn thành đề tài này! Phần I. Cơ sở lý thuyết về cán cân thanh toán quốc tế 1. Những khái niệm cơ bản Theo cuốn “Cẩm nang cán cân thanh toán” của IMF, cán cân thanh toán là một báo cáo thống kê tổng hợp lại một cách có hệ thống những giao dịch kinh tế của một nền kinh tế với phần còn lại của thế giới trong một khoảng thời gian xác định. Các giao dịch, mà chủ yếu là giữa người cư trú và phi cư trú, bao gồm: các giao dịch liên quan đến hàng hóa, dịch vụ, và thu nhập, các giao dịch liên quan đến trái quyền và các nghĩa vụ nợ với phần còn lại của thế giới, và những luồng chu chuyển vãng lai một chiều. Từ định nghĩa này có thể thấy cán cân thanh toán ghi lại những sự kiện kinh tế diễn ra trong khoảng thời gian tham chiếu, hay những luồng luân chuyển (flows ) chứ không phải vốn cổ phần (stocks ). Xét trên quan điểm quản lý nhà nước thì "giao dịch kinh tế" là các giao dịch về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập của người lao động, thu nhập về đầu tư, chuyển giao vãng lai một chiều, chuyển giao vốn một chiều, chuyển vốn vào Việt Nam, chuyển vốn từ Việt Nam ra nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp, đầu tư vào giấy tờ có giá, vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài, các hình thức đầu tư khác và các giao dịch khác theo quy định của pháp luật Việt Nam làm tăng hoặc giảm tài sản có hoặc tài sản nợ giữa Người cư trú với Người không cư trú.” (Theo Nghị định 164/1999/NĐ-CP) Việc ghi nhận các giao dịch được thực hiện qua hệ thống bút toán kép (double-entry system), có nghĩa là mỗi giao dịch được ghi vào sổ hai lần trên tư cách là một khoản nợ và một khoản có. Như vậy, xét trên tổng thể, tổng các khoản có và tổng các khoản nợ sẽ cân bằng nhau đối với một cán cân thanh toán của một quốc gia. Tuy nhiên, đối với một bộ phận nào đó của báo cáo cán cân thanh toán, vẫn có thể có vị thế thâm hụt hay thặng dư. 2. Các bộ phận của cán cân thanh toán: Mọi giao dịch của nền kinh tế (không kể của các Ngân hàng trung ương) được phản ánh ở cán cân tổng thể (OB). Tuy nhiên, vì trong một thời kỳ nhất định có rất nhiều giao dịch kinh tế phát sinh, OB lại được chia thành hai bộ phận chính, là Cán cân vãng lai và Cán cân vốn. 2.1. Cán cân vãng lai: Đặc điểm chính của cán cân vãng lai là ghi lại những khoản thu và chi mang tính chất thu nhập, tức là các khoản thu chi này phản ánh việc chuyển giao quyền sở hữu về tài sản giữa người cư trú và người không cư trú. Thành phần chủ yếu của cán cân vãng lai là: cán cân thương mại, cán cân dịch vụ, cán cân thu nhập, và cán cân chuyển giao vãng lai một chiều. 2.1.1. Cán cân thương mại: Đây là thành phần quan trọng nhất trong cán cân thanh toán quốc gia. Cán cân thương mại là khoản chênh lệch giữa nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa. Những hạng mục ghi “Nợ” gồm có nhập khẩu, viện trợ nước ngoài, đầu tư hoặc chi tiêu ra nước ngoài. Trong khi đó, những khoản ghi “Có” gồm xuất khẩu, nhận đầu tư nước ngoài. Khi giá trị nhập khẩu lớn hơn giá trị nhập khẩu, ta nói cán cân thương mại thâm hụt. Ngược lại, khi xuất khẩu vượt quá nhập khẩu, ta nói cán cân thương mại thặng dư. Cán cân thương mại thâm hụt chưa chắc đã là một điều tiêu cực. Trên thực tế, cần phải xét thâm hụt thương mại trong mối liên hệ với chu kỳ kinh doanh và nền kinh tế. Trong điều kiện kinh tế suy thoái, các nước có xu hướng xuất khẩu nhiều hơn, điều này góp phần tạo công ăn việc làm và tăng sức cầu trong nước. Trong khi đó, khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, các nước lại có xu hướng nhập khẩu nhiều hơn, từ đó tạo ra sự cạnh tranh về giá, góp phần kiềm chế lạm phát. Đồng thời điều này cũng đồng nghĩa với việc nhiều hàng hóa hơn sẽ được sản xuất ra mà không nhất thiết phải tăng giá. 2.1.2. Cán cân dịch vụ Cán cân dịch vụ bao gồm các khoản thu, chi từ hoạt động dịch vụ trong các lĩnh vực: vận tải, du lịch, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, hàng không, ngân hàng, thông tin, xây dựng…giữa người cư trú và người phi cư trú. Tương tự như xuất khẩu hàng hóa, xuất khẩu dịch vụ làm phát sinh cung ngoại tệ, nên được ghi vào bên có, còn nhập khẩu dịch vụ làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ. Theo thống kê từ IMF, trong những năm trở lại đây, doanh số xuất khẩu, nhập khẩu dịch vụ có xu hướng tăng nhanh chóng, cả về số tuyệt đối lẫn tương đối, so với doanh số xuất nhập khẩu hàng hóa. Các lĩnh vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ấn tượng bao gồm: du lịch, vận tải biển, viễn thông, và thông tin về khoa học kỹ thuật. 2.1.3. Cán cân thu nhập Cán cân thu nhập bao gồm hai loại giao dịch giữa người cư trú và người phi cư trú: + Những giao dịch liên quan đến thu nhập của người lao động: là các khoảng lương, thưởng trả cho những người lao động phi cư trú. + Những giao dịch liên quan đến các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư vào giấy tờ có giá và các khoản lãi đến hạn phải trả của các khoản vay giữa người cư trú và người phi cư trú. Các khoản thu nhập của người cư trú từ người không cư trú làm phát sinh cung ngoại tệ nên được ghi vào bên có, còn các khoản thu nhập trả cho người không cư trú làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ. 2.1.4. Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều Đây là những khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng biếu, và các khoản chuyển giao khác bằng tiền và hiện vật với mục đích tiêu dùng do người phi cư trú chuyển cho người cư trú và ngược lại. Những giao dịch này phản ánh sự phân phối lại thu nhập giữa người cư trú và người không cư trú. * Cán cân tài khoản vãng lai chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các biến số kinh tế vĩ mô (lạm phát, thu nhập quốc dân, tỷ giá hối đoái) cũng như các chính sách kinh tế (biện pháp hạn chế của chính phủ…). Cụ thể, nếu một quốc gia có tỷ lệ lạm phát tăng so với các quốc gia khác có quan hệ thương mại, thì tài khoản vãng lai của quốc gia này sẽ giảm nếu các yếu tố khác tương đương nhau, bởi vì người tiêu dùng và doanh nghiệp trong nước sẽ ưa chuộng hàng hóa từ nước ngoài hơn, trong khi xuất khẩu sang các nước khác sẽ sụt giảm. Tương tự, khi thu nhập quốc dân tăng theo một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ tăng của các quốc gia khác, tài khoản vãng lai của quốc gia đó sẽ giảm nếu các yếu tốt khác tương đương nhau, vì người dân trong nước có xu hướng tiêu dùng hàng nước ngòai nhiều hơn. Nếu đồng nội tệ của một nước bắt đầu tăng giá so với đồng tiền nước khác, tài khoản vãng lai của nước đó sẽ giảm, vì hàng xuất khẩu từ các nước này sẽ trở nên đắt đỏ hơn đối với các nước nhập khẩu nếu đồng tiền của họ mạnh, kết quả là nhu cầu của hàng hóa đó sẽ giảm. Cuối cùng chúng ta xét đến những tác động chính sách. Nếu chính phủ của một quốc gia áp dụng các hàng rào mậu dịch đối với hàng nhập khẩu, giá của hàng nước ngoài đối với người tiêu dùng trong nước sẽ tăng trên thực tế, kết quả là nhập khẩu sẽ giảm và do đó làm tăng tài khoản vãng lai. 2.2. Cán cân vốn: Khác với cán cân tài khoản vãng lai, cán cân vốn có đặc điểm nổi bật là phản ánh việc chuyển giao quyền sử dụng về tài sản giữa người cư trú và người không cư trú, nghĩa là các khoản thu và chi có liên quan đến tài sản có và tài sản nợ. Đặc trưng này dẫn đến cán cân vốn gồm những thành phần cơ bản sau: cán cân vốn dài hạn (đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp thông qua trái phiếu, tín dụng dài hạn thuộc khu vực nhà nước và tín dụng thương mại thuộc khu vực tư nhân), cán cân vốn ngắn hạn (tín dụng thương mại ngắn hạn, mua bán các giấy tờ có giá, và kinh doanh ngoại hối), và các khoản chuyển giao vốn một chiều (viện trợ không hoàn lại cho mục đích đầu tư, các khoản nợ được xóa) * Một số điểm cần chú ý: Tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn dài hạn được gọi là Cán cân cơ bản. Tính chất ổn định của cán cân cơ bản có ảnh hưởng lâu dài lên nền kinh tế và tỷ giá hối đoái. Do trong thực tế, công tác thống kê thường có nhầm lẫn và sai sót, nên theo nguyên tắc bút toán kép, để bảng cán cân thanh toán cân bằng, người ta phải bổ sung một hạng mục là lỗi và sai sót (OM). Hạng mục này bao gồm các giao dịch thực tế đã xảy ra nhưng không được ghi chép hoặc ghi chép có nhầm lẫn hoặc không chính xác. Cán cân tổng thể bằng tổng của cán cân vãng lai, cán cân vốn, và các hạng mục nhầm lẫn sai sót trong thống kê. Do cán cân thanh toán quốc tế được thực hiện theo nguyên tắc bút toán kép nên khi cán cân thanh toán thâm hụt, sẽ có một loại cán cân mới được thêm vào để làm cho nó cân bằng, đó là cán cân bù đắp chính thức. Xét về thành phần, cán cân bù đắp chính thức bao gồm thay đổi dự trữ của một quốc gia trong ngắn hạng, tín dụng với Qũy Tiền tệ Quốc tế IMF và với các ngân hàng trung ương khác, và thay đổi dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương khác bằng đồng tiền của quốc gia lập cán cân thanh toán. Tóm lại, giữa vào mối quan hệ giữa các hạng mục trong bảng Cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia, chúng ta có thể đưa ra một số phương trình: OB = CA + K + OM OB + OFB = 0 OM = - (CA+K+OFB) Trong đó: + OB: Cán cân tổng thể + CA: Cán cân vãng lai + K: Cán cân vốn + OM: Lỗi và sai sót + OFB: Cán cân bù đắp chính thức. Từ những phân tích trên, có thể thấy tầm quan trọng của cán cân thanh toán quốc tế trong việc cung cấp thông tin tổng thể về cả một nền kinh tế trong một thời kỳ. Những số liệu trên bảng cán cân thanh toán có thể giúp ta phân tích những yếu tố đứng đằng sau cung, cầu của một đồng tiền, và lý giải được tác động của những yếu tố đó đến hoạt động thương mại quốc tế và theo đó là lên tỷ giá hối đoái. Việc nghiên cứu kỹ cơ sở lý luận về cán cân thanh toán như đã trình bày ở trên cung cấp một cái nhìn bao quát về các giao dịch kinh tế, là tiền đề quan trọng giúp chúng ta đánh giá chính xác thực trạng cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn 2005-2010 để từ đó đưa ra các khuyến nghị chính sách cần thiết. Hai vấn đề này sẽ được lần lượt bàn tới ở phần tiếp theo đây của bài tiểu luận. Phần II. Phân tích tình hình cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 Chúng tôi xin được trình bày chủ yếu về tình hình, nguyên nhân của cán cân vãng lai và cán cân vốn, đây là 2 thành phần quan trọng bậc nhất của cán cân thanh toán quốc tế trong giai đoạn 2005 – 2010. 1. Cán cân vãng lai (Current Account – CA) Trên tiến trình hội nhập sâu và rộng hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt trong những năm gần đây, quy mô các hoạt động kinh tế ngoại thương của Việt Nam ngày càng được mở rộng và số lượng giao dịch kinh tế quốc tế đã tăng lên một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra và cơ cấu kinh tế còn nhiều bất cập, nền kinh tế tỷ trọng lớn là nông nghiệp và lại xuất khẩu chủ yếu sản phẩm thô, cán cân vãng lai của Việt Nam từ khi vào cuộc chơi WTO cho tới nay vẫn không đạt được như kỳ vọng của các nhà kinh tế. Cán cân vãng lai của Việt Nam trong giai đoạn từ 2005 - 2010 Năm  2005  2006  2007  2008  2009  2010   CA  -0,560  -0,163  -6.953  -10,787  -6,274  -4,015   % GDP  -0,9%  -0,3%  -10%  -12%  -6%  -3,83%    Đơn vị : tỷ USD. Nguồn: Worldbank data. . Trong năm 2005 và 2006, cán cân vãng lai thâm hụt rất là nhỏ so với GDP là do đóng góp một phần không nhỏ vào kết quả này là 750 triệu USD vốn nước ngoài vay được sau đợt phát hành trái phiếu quốc tế hồi tháng 11/2005. Với Việt Nam năm 2007 là một năm đặc biệt, nhưng trong năm này hầu hết các nước trong khu vực Châu Á (Thái Lan, Philippin, Malaysia, Trung Quốc…) đều có thặng dư tài khoản vãng lai trong khi đó Việt Nam lại thâm hụt với mức độ lớn gần 7 tỷ đô. Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ vào cuối năm 2007 đã lan nhanh và ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới, trở thành cuộc khủng hoảng lớn nhất kể từ cuộc đại suy thoái 1929-1933. Các tác động của cuộc khủng hoảng trên lan tràn trên diện rộng, không chỉ trong hoạt động của các ngân hàng, mà tất cả các nền kinh tế, các thị trường bước vào thời kì suy thoái nghiêm trọng, cán cân vãng lai của hầu hết các quốc gia đều bị ảnh hưởng, trong đó có Việt Nam. Theo số liệu ước tính của Woldbank, trong năm 2007, 2008 cán cân vãng lai của Việt Nam thâm hụt 6,953 tỷ đô, 10,787 tỷ đô tương đương 10 % và 12% GDP, vượt ngưỡng an toàn ( 5% GDP) 2 lần, tất cả những con số này cho thấy thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam đã thật sự đáng báo động. Nguyên nhân do những ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới tới nền kinh tế Việt Nam , lạm phát trong nước tăng cao trong những tháng đầu năm 2008 ( theo IMF lạm phát cả năm là 28% ), giá xăng dầu trên thế giới tăng cao… Sang năm 2009, thâm hụt cán cân vãng lai tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao. Cán cân thanh toán năm 2010 nước ta vẫn thâm hụt 4 tỷ USD, tuy có cải thiên hơn so với năm 2009 (6,93 tỷ USD). Tuy nhiên, tính một cách chi tiết thì con số này vào khoảng 2,5 tỷ USD, do lượng kiều hối đạt khoảng 8,4 tỷ USD, FDI, FII (tính riêng dòng tiền vào thị trướng chứng khoán dương khoảng 1 tỷ USD), ODA…đều đạt được kết quả tốt. Sau đây chúng ta đi vào phân tích tình hình của các cán cân bộ phận hình thành nên cán cân vãng lai. 1.1.Cán cân thương mại (TB) Giai đoạn từ năm 2005-2010: Ta có bảng số liệu sau: Cán cân thương mại của Việt Nam từ năm 2005-2007 Năm  2005  2006  2007  2008  2009  2010   XK hàng hóa giá FOB  32.447  39.826  48.561  62.685  57.096  71.600   NK hàng hóa giá FOB  34.886  42.602  58.921  75.467  65.402  83.900   TB=XK-NK  -2.439  -2.776  -10.360  -12.782  -8.306  -12.3   % so với GDP(%)  -3.9%  -4.6%  -14,5  -14,15%  -8,54%  -11,7%   Đơn vị: triệu USD Nguồn: Worldbank data.  Trong 2 năm 2005, 2006 mức thâm hụt cán cân thương mại tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao, và đặc biệt trong năm 2007, cán cân thương mại thâm hụt ở mức kỷ lục cao lên tới 10.360 triệu USD, chủ yếu do tốc độ tăng của xuất khẩu nhỏ hơn tốc độ tăng của nhập khẩu. Năm 2008 cán cân thương mại tiếp tục thâm hụt cao hơn năm 2007, lên tới 12.782 tỷ USD. Nguyên nhân chính là do giá cả hàng hóa trên thế giới tăng cao và khủng hoảng khiến các nước hạn chế nhập khẩu. Theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tháng 12/2008 ước đạt 4,9 tỷ USD, tăng 16,2% so với tháng trước chủ yếu do sản lượng dầu thô khai thác tăng, mức tiêu thụ hàng dệt may mạnh hơn vào tháng cuối năm và lượng gạo xuất khẩu đã tăng trở lại. Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước đạt 62,685 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 34,685 tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, chiếm 50,3%. Trong tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm tỷ trọng 31%, nhóm hàng nông sản chiếm 16,3%. Các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam trong năm 2008 là Hoa Kỳ đạt 11,6 tỷ USD, ASEAN đạt 10,2 tỷ USD, EU đạt 10 tỷ USD, Nhật Bản đạt 8,8 tỷ USD. Các thị trường nhập khẩu của Việt Nam, ASEAN đạt 19,5 tỷ USD, Trung Quốc đạt 15,4 tỷ USD, EU đạt 5,2 tỷ USD, Nhật Bản đạt 8,3 tỷ USD. Một thực tế là trong nhiều năm nay, Việt Nam xuất siêu với Hoa Kỳ và EU nhưng nhập siêu từ Trung Quốc và các nước ASEAN rất lớn, trong năm 2008, Việt Nam đã nhập siêu hơn 10 tỷ USD với Trung Quốc và hơn 9 tỷ USD với các nước ASEAN, nguyên nhân là do suy thoái kinh tế thế giới khiến cho thị trường các nước này cũng bị giảm sút và hàng hóa giá rẻ của các nước này đã ồ ạt nhập khẩu vào Việt Nam. Năm 2009 là năm kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, giá cả hàng hóa thế giới sau thời kì tăng giá vào khoảng 3 quý đầu năm 2008 đã có chiều hướng giảm mạnh trên thị trường thế giới cùng với xu hướng giảm mạnh của giá dầu, điều này gây ra khó khăn cho hoạt động xuất khẩu của nhiều nước và Việt Nam. Từ bảng số liệu của IMF, chúng ta nhận thấy, thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam gia tăng rất nhanh qua các năm. Trong khi IMF dự báo mức thâm hụt cán cân thương mại năm 2009 là 7 tỉ đô la Mỹ trong bối cảnh suy thoái kinh tế, thì thông tin trong thán
Luận văn liên quan