Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và là xu thế tất yếu của các quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Vì vậy thị trường bảo hiểm Việt Nam cần phải có những bước chuyển mình nhằm đáp ứng những nhu cầu của thách thức và hội nhập nếu không muốn gạt ra khỏi lề của sự phát triển. Đặc biệt Việt Nam hiện nay đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, do đó lĩnh vực dịch vụ tài chính, trong đó bảo hiểm là một trong những lĩnh vực nhạy cảm được quan tâm nhiều. Những biến động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian gần đây, nhất là sau khi gia nhập WTO đã chứng minh tính sôi động của nó với hàng loạt các công ty, tập đoàn bảo hiểm nước ngoài ở Châu Âu, Châu Mỹ và cả trong khu vực cũng như những nước láng giềng đã đang và sẽ ra nhập vào thị trường Việt Nam.
Trước bối cảnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng đã và đang nỗ lực không ngừng để giữ vững và nâng cao vị thế cạnh tranh của mình trước những đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường.
Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex được thành lập từ năm 1995, là một trong những công ty cổ phần đầu tiên được thành lập trong lĩnh vực bảo hiểm. Chỉ với hơn 10 năm sau khi ra nhập thị trường công ty đã thổi một luồng gió mới vào thị trường bảo hiểm Việt Nam với những thành tựu kinh doanh đáng kể, chiếm được cảm tình và niềm tin của đông đảo khách hàng trong đó có rất nhiều khách hàng lớn. Có thể nói vị thế của PJICO ngày càng được khẳng định và nâng cao trên thị trường, là một địa chỉ đáng tin cậy cho nhiều tổ chức cá nhân tìm đến để đảm bảo an toàn, bình yên cho việc kinh doanh và cuộc sống của họ. Tuy nhiên trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, đặc biệt là năm 2008 này theo cam kết gia nhập WTO thì không còn rào cản phân biệt giữa doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam và doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Để có thể giữ vững và nâng cao hơn nữa vị thế của mình đòi hỏi công ty phải có sự chuẩn bị về mọi mặt để chủ động cạnh tranh trên thị trường. Vì thế mà phân tích hoạt động kinh doanh giữ một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường, nó có tác dụng giúp doanh nghiệp tự đánh giá mình về thế mạnh, thế yếu để củng cố, phát huy hoặc khắc phục, cải tiến quản lý. Phát huy mọi tiềm năng của thị trường, khai thác tối đa nguồn lực của doanh nghiệp, nhằm đạt đến hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. Xuất phát từ đòi hỏi thiết thực khách quan đó em đã chọn đề tài: “Phân tích tình hình doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 2003 – 2007” để nghiên cứu tìm hiểu.
106 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 5900 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 2003 – 2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở Đầu
Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và là xu thế tất yếu của các quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Vì vậy thị trường bảo hiểm Việt Nam cần phải có những bước chuyển mình nhằm đáp ứng những nhu cầu của thách thức và hội nhập nếu không muốn gạt ra khỏi lề của sự phát triển. Đặc biệt Việt Nam hiện nay đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, do đó lĩnh vực dịch vụ tài chính, trong đó bảo hiểm là một trong những lĩnh vực nhạy cảm được quan tâm nhiều. Những biến động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian gần đây, nhất là sau khi gia nhập WTO đã chứng minh tính sôi động của nó với hàng loạt các công ty, tập đoàn bảo hiểm nước ngoài ở Châu Âu, Châu Mỹ và cả trong khu vực cũng như những nước láng giềng đã đang và sẽ ra nhập vào thị trường Việt Nam.
Trước bối cảnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng đã và đang nỗ lực không ngừng để giữ vững và nâng cao vị thế cạnh tranh của mình trước những đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường.
Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex được thành lập từ năm 1995, là một trong những công ty cổ phần đầu tiên được thành lập trong lĩnh vực bảo hiểm. Chỉ với hơn 10 năm sau khi ra nhập thị trường công ty đã thổi một luồng gió mới vào thị trường bảo hiểm Việt Nam với những thành tựu kinh doanh đáng kể, chiếm được cảm tình và niềm tin của đông đảo khách hàng trong đó có rất nhiều khách hàng lớn. Có thể nói vị thế của PJICO ngày càng được khẳng định và nâng cao trên thị trường, là một địa chỉ đáng tin cậy cho nhiều tổ chức cá nhân tìm đến để đảm bảo an toàn, bình yên cho việc kinh doanh và cuộc sống của họ. Tuy nhiên trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, đặc biệt là năm 2008 này theo cam kết gia nhập WTO thì không còn rào cản phân biệt giữa doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam và doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Để có thể giữ vững và nâng cao hơn nữa vị thế của mình đòi hỏi công ty phải có sự chuẩn bị về mọi mặt để chủ động cạnh tranh trên thị trường. Vì thế mà phân tích hoạt động kinh doanh giữ một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường, nó có tác dụng giúp doanh nghiệp tự đánh giá mình về thế mạnh, thế yếu để củng cố, phát huy hoặc khắc phục, cải tiến quản lý. Phát huy mọi tiềm năng của thị trường, khai thác tối đa nguồn lực của doanh nghiệp, nhằm đạt đến hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. Xuất phát từ đòi hỏi thiết thực khách quan đó em đã chọn đề tài: “Phân tích tình hình doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 2003 – 2007” để nghiên cứu tìm hiểu.
Bài viết của em được chia thành ba chương, ngoài mở đầu và kết luận nội dung có:
Chương I: Lý thuyết cơ bản về phân tích doanh thu và chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm
Chương II: Phân tích tình hình doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 2003 – 2007.
Chương III: Một số giải pháp góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty PJICO
Trong quá trình hoàn thành chuyên đề này, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của cô giáo Th.S Tôn Thị Thanh Huyền đồng thời em cũng nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các anh chị trong công ty PJICO đặc biệt là phòng bảo hiểm khu vực VII đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Do thời gian và trình độ còn hạn chế nên không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I: Lý thuyết cơ bản về phân tích doanh thu và chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm
Khái quát chung về doanh nghiệp bảo hiểm
Khái niệm và phân loại doanh nghiệp bảo hiểm
a. Khái niệm doanh nghiệp bảo hiểm
Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập cơ bản của nền kinh tế, có tư cách pháp nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục đích tối đa hóa lợi nhuận và sự phát triển của xã hội. “Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến kinh doanh bảo hiểm”.
Doanh nghiệp bảo hiểm là một loại doanh nghiệp dịch vụ, hoạt động của nó cũng nhằm mục đích sinh lời. Điểm khác nhau cơ bản giữa doanh nghiệp bảo hiểm với các doanh nghiệp khác là ở chỗ: Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm; nó có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm nếu người mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm cho doanh nghiệp. Như vậy, muốn phân biệt phải dựa vào đặc điểm hoạt động kinh doanh của DNBH.
b. Phân loại doanh nghiệp bảo hiểm
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế đa dạng, phong phú các hoạt động kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế đó có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Vì vậy, các tổ chức kinh tế cũng phù hợp với thành phần kinh tế đó. Cụ thể trong thị trường bảo hiểm thường bao gồm các hình thức tổ chức như sau:
b.1. Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà Nước
Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà Nước là doanh nghiệp do Nhà Nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách là người chủ sở hữu. Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà Nước là một pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
b.2. Công ty cổ phần bảo hiểm
Công ty cổ phần bảo hiểm là loại doanh nghiệp do các cổ đông tham gia đóng góp vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu trái phiếu và có trách nhiệm hữu hạn. Đây là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với số vốn góp.
b.3. Công ty bảo hiểm tư nhân
Công ty bảo hiểm tư nhân là công ty bảo hiểm do cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của công ty trước pháp luật. Công ty được thành lập theo luật công ty.
b.4. Tổ chức bảo hiểm tương hỗ
Tổ chức bảo hiểm tương hỗ là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập để kinh doanh bảo hiểm nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên. Thành viên tổ chức tương hỗ vừa là bên mua bảo hiểm. Về mặt pháp lý, họ vừa là hội viên, vừa là những người được bảo hiểm.
b.5. Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh
Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh được thành lập trên cơ sở góp vốn của các doanh nghiệp (trong nước và nước ngoài). Vị trí các bên trong doanh nghiệp phụ thuộc vào mức vốn góp. Các thành viên trong doanh nghiệp hưởng lợi nhuận cũng như chịu thua lỗ tương ứng mức vốn góp.
b.6. Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài
Đây là doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư vốn, hoạt động tại nước sở tại, theo pháp luật của nước sở tại, đồng thời chịu sự chỉ đạo của công ty mẹ ở chính quốc.
b.7. Tổ chức Lloyd’s
Lúc đầu Lloyd’s là một tổ chức bảo hiểm tương hỗ của các nhà bảo hiểm hàng hải London, được thành lập năm 1720. Theo thời gian, Lloyd’s càng phát triển và trở nên nổi tiếng nhờ bảo hiểm những rủi ro đặc biệt.
Trong thị trường bảo hiểm còn có các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm bao gồm nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế như:
Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm Nhà Nước
Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm
Công ty trách nhiệm hữu hạn môi giới bảo hiểm
Công ty hợp doanh môi giới bảo hiểm
Doanh nghiệp tư nhân môi giới bảo hiểm
Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh
Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài
Các tổ chức như đại lý bảo hiểm, văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm là các tổ chức phụ thuộc, không đủ tư cách để gọi là doanh nghiệp bảo hiểm.
Nội dung và đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
Nội dung hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của DNBH nhằm mục đích sinh lời. Ở đây DNBH chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm trên cơ sở người mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm cho người bảo hiểm (DNBH), DNBH bồi thường (hoặc trả tiền bảo hiểm) cho những tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người thụ hưởng.
Cũng giống như bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, ngoài việc đáp ứng cho các nhu cầu an toàn của con người thì lợi nhuận là mục tiêu của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bởi vậy, có một số nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Nguyên tắc 1: “Số đông bù số ít”. Đây là nguyên tắc xuyên suốt, không thể thiếu được trong bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm thương mại nào. Theo đó hậu quả của rủi ro xảy ra đối với một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp phải rủi ro như vậy.
Nguyên tắc 2: “Rủi ro có thể được bảo hiểm”. Mặc dù công ty BH cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho những cá nhân và tổ chức có nhu cầu nhưng không phải trong mọi trường hợp công ty BH đều chấp nhận các yêu cầu bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, rủi ro có thể được bảo hiểm phải là những rủi ro bất ngờ, không lường trước được, nhằm tránh cho công ty BH phải bồi thường cho những tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp như vậy chắc chắn sẽ dẫn tới phá sản. Đồng thời nó cũng giúp các công ty BH có thể tính được các mức phí chính xác, lập nên được một quỹ BH đầy đủ để đảm bảo cho công tác bồi thường. Không chỉ đảm bảo quyền lợi cho các công ty BH mà ngay chính những người tham gia bảo hiểm cũng thấy công bằng hơn khi nguyên tắc này được áp dụng.
Nguyên tắc 3: “ Phân tán rủi ro”. Mặc dù quỹ BH là một quỹ tài chính lớn, được lập ra bởi sự đóng góp của nhiều người theo nguyên tắc số đông và như vậy với tư cách là người huy động và quản lý quỹ, các công ty BH có khả năng thực hiện nhiệm vụ chi trả bảo hiểm. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào công ty BH cũng luôn đảm bảo được khả năng này. Điều này có thể thấy rất rõ với những quỹ BH huy động được còn chưa nhiều trong khi đó giá trị bảo hiểm lại rất lớn hoặc với những trường hợp có rủi ro liên tiếp xảy ra gây tổn thất lớn.
Một kinh nghiệm trong hoạt động của các DNBH là không nhận những rủi ro quá lớn, vượt quá khả năng tài chính của công ty. Tuy nhiên để tránh được điều tối kỵ là phải từ chối bảo hiểm đông thời vẫn đảm bảo được hoạt động kinh doanh, các DNBH áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro. Có hai phương thức phân tán rủi ro được sử dụng: Đồng bảo hiểm và Tái bảo hiểm. Đồng bảo hiểm là nhiều nhà bảo hiểm cùng nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn. Còn kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động của DNBH chuyển một phần (hoặc toàn bộ) rủi ro đã chấp nhận cho DNBH khác, ngược lại, nhận bảo hiểm một phần hoặc toàn bộ rủi ro mà doanh nghiệp khác đã chấp nhận. Thông qua hoạt động chuyển tái và nhận tái, DNBH vừa ổn định kinh doanh vừa thu lợi nhuận, vừa phát triển mối quan hệ kinh tế với các nước.
Nguyên tắc 4: “Trung thực tuyệt đối”. Theo nguyên tắc này đòi hỏi DNBH phải có trách nhiệm cân nhắc các điều kiện, điều khoản để soạn thảo hợp đồng để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên, từ đó góp phần tăng thêm tính hữu hình của sản phẩm bảo hiểm – một sản phẩm dịch vụ. Chất lượng sản phẩm bảo hiểm có đảm bảo hay không, giá cả có hợp lý hay không, quyền lợi của người được bảo hiểm có đảm bảo đầy đủ công bằng hay không… đều chủ yếu dựa vào sự trung thực của phía DNBH.
Ngược lại, nguyên tắc này cũng đặt ra yêu cầu đối với người tham gia bảo hiểm, là phải trung thực trong việc khai báo rủi ro khi tham gia bảo hiểm, để giúp DNBH xác định mức phí phù hợp với rủi ro mà họ đảm nhận. Thêm vào đó các hành vi gian lận nhằm trục lợi bảo hiểm khi thông báo, khai báo các thiệt hại để đòi bồi thường sẽ được sử lý theo pháp luật
Nguyên tắc 5: “Quyền lợi có thể được bảo hiểm”. Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia BH phải có lợi ích tài chính bị tổn thất nếu đối tượng được bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách khác, người tham gia BH phải có một số quan hệ với đối tượng được BH và được pháp luật công nhận. Mối quan hệ có thể biểu hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản, quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm. Nguyên tắc này nhằm loại bỏ khả năng BH cho tài sản của người khác hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc tổn thất để thu lợi từ một đơn bảo hiểm.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, trong mỗi một loại hình bảo hiểm sẽ có thêm các nguyên tắc khác phù hợp với đặc điểm của từng loại: nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc khoán...
Đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất
DNBH không chỉ có trách nhiệm bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm do rủi ro tai nạn bất ngờ gây ra nhằm giúp người được BH ổn định kinh tế, khôi phục sản suất và đời sống, mà còn tiến hành các biện pháp đề phòng rủi ro và tổn thất trước khi tai nạn xảy ra.
Thông qua phân tích nguyên nhân của những rủi ro tai nạn bất ngờ, DNBH rút ra được những biện pháp cần thiết để cùng khách hàng thực hiện nhằm đề phòng tổn thất xảy ra.
Giám định tổn thất
Giám định tổn thất là nhiệm vụ, là một khâu quan trọng trong chu trình hoạt động kinh doanh BH. Sau khi nhận được thông báo của người được bảo hiểm về tai nạn rủi ro xảy ra, giấy yêu cầu giám định và các giấy tờ khác liên quan, DNBH phải cử giám định viên đến hiện trường cùng các thành viên liên quan để xác định tính chất, nguyên nhân mức độ thiệt hại… Điều quan trọng của công tác giám định là xác định nguyên nhân rủi ro có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không? Tổn thất thực tế là bao nhiêu để làm căn cứ bồi thường.
Đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn…
DNBH không chỉ phải giám định tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm của mình mà còn có thể làm đại lý giám định tổn thất cho doanh nghiệp khác.
Căn cứ biên bản giám định, đối chiếu với hợp đồng BH, doanh nghiệp xem xét giải quyết bồi thường theo các nguyên tắc quy định. Giải quyết bồi thường phải nhanh chóng, kịp thời, đúng thủ tục nhằm giúp người bị hại nhanh chóng khắc phục được hậu quả của rủi ro tai nạn bất ngờ. Nếu có sự tranh chấp giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm về số tiền bảo hiểm, việc giải quyết sẽ được chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền theo luật định.
Quản lý quỹ và đầu tư vốn
Mục đích kinh doanh bảo hiểm hay tái bảo hiểm là lợi nhuận. Do đó quản lý quỹ bảo hiểm và đầu tư vốn (tức nguồn quỹ bảo hiểm thu được do người tham gia đóng phí) là hết sức quan trọng. Quản lý quỹ tức quản lý thu chi đúng chế độ. Thu phải thu đúng, thu đủ, triệt để khai thác các nguồn thu, chi đúng chế độ kịp thời, tiết kiệm nhất là chi bồi thường, chi quản lý… Nguồn quỹ thu được chưa chi đến phải đem đầu tư sinh lời. Là hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp bảo hiểm tìm thị trường đầu tư vừa sinh lời cao, vừa đảm bảo không mất vốn.
Trên đây là năm nội dung hoạt động quan trọng, chủ yếu của DNBH. Ngoài ra doanh nghiệp có thể tham gia vào các hoạt động khác mà pháp luật cho phép.
Thông thường, các DNBH hoặc kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, hoặc kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ chứ không cùng một lúc kinh doanh cả hai loại hình bảo hiểm. Bởi vì, hai loại hình bảo hiểm đó có đặc trưng khác nhau, cần tập trung trí tuệ chuyên sâu để đạt hiệu quả cao. Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam cũng không cho phép một doanh nghiệp kinh doanh cả hai loại hình bảo hiểm.
Đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của DNBH vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy mọi hoạt động đều mang đặc trưng kinh doanh, lấy lợi nhuận làm mục tiêu phấn đấu. Chiến lược kinh doanh của DNBH đều đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Để đạt mục tiêu đó hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải tính đến những đặc điểm sau:
Đối tượng kinh doanh đa dạng
Bảo hiểm thương mại có đối tượng bảo hiểm là tài sản, trách nhiệm dân sự và con người.
Mỗi đối tượng BH bao gồm rất nhiều nghiệp vụ cụ thể. Mỗi nghiệp vụ là một hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp bán sản phẩm bảo hiểm ra thị trường và thu về phí bảo hiểm (giá bảo hiểm). Phí đó được tính toán trên cơ sở khoa học đảm bảo thu bù chi, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước và có lãi cho doanh nghiệp. Với đối tượng bảo hiểm đa dạng như vậy, quy luật số lớn trong kinh doanh bảo hiểm càng phát huy tác dụng; do đó mục đích lợi nhuận sẽ đạt được.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm có vốn pháp định lớn
Ngoài nguồn vốn của DNBH bao gồm vốn điều lệ, phí bảo hiểm thu được, lãi đầu tư,… Trong đó, vốn điều lệ phải đảm bảo như mức vốn pháp định do pháp luật quy định. Vốn pháp định lớn là do đặc thù của kinh doanh bảo hiểm – kinh doanh rủi ro. Để nhằm bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm khi DNBH làm ăn không hiệu quả, không có đủ tiền để trả cho khách hàng, Nhà Nước sẽ lấy từ vốn điều lệ của doanh nghiệp để giải quyết cho họ.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn phải có dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
Do kinh doanh bảo hiểm có sự tích lũy rủi ro nên tất cả các khoản tiền được trích ra từ phí bảo hiểm phục vụ cho mục đích bồi thường hay chi trả bảo hiểm thực hiện các cam kết trong hợp đồng bảo hiểm chính là các quỹ dự phòng nghiệp vụ. Dự phòng nghiệp vụ là khoản dự trữ liên quan đến từng nghiệp vụ bảo hiểm, được trích lập và hạch toán vào chi phí kinh doanh nhằm mục đích thanh toán các trách nhiệm đã được xác định trước và phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết. Việc thành lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ không chỉ là yêu cầu có tính chất kỹ thuật bảo hiểm, mà còn là sự bắt buộc mang tính pháp lý đối với DNBH. Sự bắt buộc này góp phần bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, nâng cao ý thức trách nhiệm của DNBH, đồng thời tạo điều kiện để tập trung nguồn vốn để đầu tư.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn gắn kết với hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nó góp phần phát triển quỹ tài chính, tạo điều kiện mở rộng quy mô doanh nghiệp, tăng quỹ phúc lợi đồng thời tăng thu nhập cho người lao động và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn vốn đầu tư phát triển gồm có: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện, các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng, vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động kinh doanh phải tuân thủ quy định của luật kinh doanh bảo hiểm, các quy định khác của pháp luật có liên quan và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Doanh thu và chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm
Doanh thu của doanh nghiệp bảo hiểm
2.1.1. Khái niệm
DNBH trong khuôn khổ những quy định pháp lý được phép thực hiện nhiều hoạt động khác nhau: kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm, đại lý giám định xét giải quyết bồi thường, đầu tư vốn…
Như vậy, phạm vi hoạt động kinh doanh của DNBH không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ của hoạt động kinh doanh bảo hiểm mà nó có thể được xếp thành ba loại:
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Hoạt động đầu tư tài chính
Hoạt động khác
Theo đó, doanh thu bảo hiểm của DNBH là: doanh thu từ hoạt động bán sản phẩm bảo hiểm và cung cấp dịch vụ, tiền lãi từ hoạt động đầu tư và các khoản thu nhập khác ngoài các hoạt động bán sản phẩm bảo hiểm và đầu tư.
2.1.2. Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Đây là nguồn thu cơ bản và đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của DNBH. Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm được tính bằng số tiền phải thu sau khi đã trừ đi các khoản chi để giảm thu phát sinh trong kỳ từ các hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Doanh thu kinh doanh bảo hiểm bao gồm các khoản thu sau đây:
Tiền thu phí bảo hiểm gốc: là toàn bộ phí BH thu từ các hoạt động BH đã ký kết trong kỳ.
Tiền thu nhận tái bảo hiểm: là toàn bộ tiền phí nhận tái bảo hiểm thu từ các hợp đồng tái bảo hiểm trong kỳ.
Tiền thu nhượng tái bảo hiểm: là toàn bộ các khoản tiền thu về hoa hồng nhượng tái bảo hiểm và khoản thu khác từ hoạt động tái bảo hiểm trong kỳ.
Ngoài ra, khi doanh nghiệp đứng ra làm đại lý cho các DNBH khác trong việc giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý hàng bồi thường 100%, số tiền phải thu từ các hoạt động này cũng được tính vào doanh thu phát sinh trong kỳ của DNBH.
Cũng như các loại hình kinh doanh khác, DNBH có thể gặp phải trường hợp hàng bán bị trả lại, hoặc DNBH áp dụng chính sách giảm giá hàng bán. Đây được coi là các khoản chi làm giảm thu phát sinh trong kỳ, là các khoản thu phát sinh trong kỳ nhưng phải trả lại, bao gồm:
Hoàn phí bảo hi