Vốn được xem là điều kiện không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Việc huy động và sử dụng vốn có ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh và việc tái tạo vốn cho những chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng được thành lập từ năm 1992, từ doanh nghiệp nhà nước qua bao nhiêu năm thay đổi trở thành công ty cổ phần lớn mạnh như ngày nay. Từ vị thế gần như độc quyền, xí nghiệp bắt đầu làm quen với sự cạnh tranh trong khi công nghệ sản xuất còn lạc hậu, chất lượng, mẫu mã sản phẩm, giá cả còn hạn chế.Trong hơn 50 năm xây dựng và phát triển công ty Cổ Phần Điện Cơ đã có rất nhiều năm kinh nghiệm trong sản xuất nhưng cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng mạnh mẽ của điều kiện kinh tế xã hội các cuộc khủng hoảng ảnh hưởng đến không chỉ nền kinh tế thế giới mà còn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế trong nước và sự cạnh trạnh gay gắt trên thị trường trong những năm gần đây. Tuy vậy công ty Cổ Phần Điện Cơ luôn cố gắng tìm biện pháp sử dụng vốn hợp lý để đưa công ty vượt qua những khó khăn, thách thức nhằm thực hiện mục tiêu của công ty.
Xuất phát từ tình tình thực tế trên và được sự đồng ý của Đoàn thực tập khóa K10, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Phân tích tình hình sử dụng vốn và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng”.
73 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2096 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình sử dụng vốn và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
Vốn được xem là điều kiện không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Việc huy động và sử dụng vốn có ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh và việc tái tạo vốn cho những chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng được thành lập từ năm 1992, từ doanh nghiệp nhà nước qua bao nhiêu năm thay đổi trở thành công ty cổ phần lớn mạnh như ngày nay. Từ vị thế gần như độc quyền, xí nghiệp bắt đầu làm quen với sự cạnh tranh trong khi công nghệ sản xuất còn lạc hậu, chất lượng, mẫu mã sản phẩm, giá cả còn hạn chế.Trong hơn 50 năm xây dựng và phát triển công ty Cổ Phần Điện Cơ đã có rất nhiều năm kinh nghiệm trong sản xuất nhưng cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng mạnh mẽ của điều kiện kinh tế xã hội các cuộc khủng hoảng ảnh hưởng đến không chỉ nền kinh tế thế giới mà còn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế trong nước và sự cạnh trạnh gay gắt trên thị trường trong những năm gần đây. Tuy vậy công ty Cổ Phần Điện Cơ luôn cố gắng tìm biện pháp sử dụng vốn hợp lý để đưa công ty vượt qua những khó khăn, thách thức nhằm thực hiện mục tiêu của công ty.
Xuất phát từ tình tình thực tế trên và được sự đồng ý của Đoàn thực tập khóa K10, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Phân tích tình hình sử dụng vốn và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.2.1. Mục tiêu chung.
Tìm hiểu thực trạng sử dụng vốn của công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể.
Tìm hiểu thực trạng sử dụng vốn của công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng.
Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng.
Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu thực trạng sử dụng vốn tại công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu.
+ Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng.
+ Phạm vi thời gian: Nghiên cứu thực trạng sử dụng vốn của công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng trong 3 năm 2010 – 2012.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp chọn điểm điều tra
Công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả của thành phố, sản xuất và kinh doanh quạt các loại. Nhưng đang gặp phải nhiều khó khăn trước tình hình kinh tế khủng hoảng và sự cạnh tranh của thị trường.
1.4.2. Phương pháp thu thập thông tin
Chủ yếu là thông tin thứ cấp được thu thập thông qua các chứng từ sổ sách ghi chép tại công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng , thông qua các trang web có đăng tải thông tin về công ty: www.hapemco.vn .....
1.4.3. Phương pháp thống kê kinh tế
+ Thống kê mô tả.
+ Thống kê so sánh.
1.5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và bảng biểu, nội dung chuyên đề tốt nghiệp của em gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Chương 2 : Tình hình sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng giai đoạn 2010-2012.
Chương 3 : Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ Phần Điện Cơ Hải Phòng.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Một số vấn đề cơ bản về vốn.
1.1.1. Khái niệm về vốn.
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong bất cứ lĩnh vực nào đều gắn liền với vốn, không có vốn thì không thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh được, chính vì vậy người ta thường nói vốn là chìa khoá để mở rộng và phát triển kinh doanh.
Vậy vốn là gì? Dưới các giác độ khác nhau, khái niệm vốn cũng khác nhau(theo luật Tài chính Việt Nam năm 2000 ):
* Về phương diện kỹ thuật.
- Trong phạm vi doanh nghiệp, vốn là các loại hàng tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh cùng với các nhân tố khác nhau (như lao động, tài nguyên thiên nhiên...)
- Trong phạm vi nền kinh tế, vốn là hàng hóa để sản xuất ra hàng hóa khác lớn hơn chính nó về mặt giá trị.
* Về phương diện tài chính.
- Trong phạm vi doanh nghiệp, vốn là tất cả tài sản bỏ ra lúc đầu, thường biểu hiện bằng tiền dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích lợi nhuận.
- Trong phạm vi kinh tế, vốn là khối lượng tiền tệ đưa vào lưu thông nhằm mục đích sinh lời.
Vốn là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp phải nhằm mục đích kinh doanh và phải đạt tới mục tiêu sinh lời. Vốn luôn thay đổi hình thái biểu hiện, vừa tồn tại dưới hình thái tiền tệ, vừa tồn tại dưới hình thái vật tư hoặc tài sản vô hình, nhưng kết thúc vòng tuần hoàn phải là hình thái tiền.
Cùng với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn vận động không ngừng, có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm cuối cùng là giá trị tiền nên ta thấy vốn là toàn bộ giá trị của tài sản doanh nghiệp ứng ra ban đầu và trong các giai đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tăng giá trị tối đa cho chủ sở hữu của doanh nghiệp.
1.1.2. Phân loại vốn trong doanh nghiệp.
Có nhiều cách để sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả. Để phân loại nguồn vốn khác nhau, người ta thường phân loại vốn theo các tiêu thức sau:
1.1.2.1. Căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của vốn, có thể chia vốn thành các loại sau:
a) Vốn cố định:
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền giá trị tài sản cố định, sự vận động của nó luôn gắn liền với sự vận hành và chu chuyển của tài sản cố định, chính vì vậy để có thể nghiên cứu sâu hơn vốn cố định trước hết ta phải tìm hiểu những đặc điểm tài sản cố định.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu của doanh nghiệp mà theo quy định của nhà nước nó phải thỏa mãn hai điều kiện :
- Thời gian sử dụng tối thiểu phải một năm trở lên.
- Phải có giá trị đủ lớn theo quy định phù hợp với tình hình kinh tế của từng thời kỳ (hiện nay là từ 5 triệu đồng trở lên).
Khi tham gia vào quá trình sản xuất tài sản cố bị hao mòn dần và giá trị của nó (vốn cố định) được dịch chuyển từng phần vào chi phí kinh doanh. Khác với đối tượng lao động, tài sản cố định tham gia nhiều chu kỳ kinh doanh vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu đến lúc hỏng.Tuỳ từng khu vực, từng quốc gia mà quy định tài sản khác nhau và cũng như vậy thì có nhiều tài sản cốđịnh. Theo quy định hiện hành của Việt Nam tài sản cố định bao gồm hai loại:
* Tài sản cố định hữu hình: Tài sản cố định hữu hình là tư liệu lao động chủyếu, có hình thái vật chất, có giá trị lớn thời gian sử dụng lâu dài và tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu.
Ví dụ: nhà cửa , thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải truyền dẫn...
Tiêu chuẩn nhất định nhận biết tài sản cố định hữu hình: mọi tư liệu lao động là tài sản cố định có kết cấu độc lập hoặc là hệ thống bao gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau, để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất cứ bộ phận nào thì cả hệ thống không hoạt động được, nếu đồng thời thoả mãn cả hai nhu cầu sau:
- Có thời gian sử dụng từ năm năm trở lên.
- Có giá trị từ năm triệu đồng trở lên.
Trường hợp có một hệ thống gồm nhiều tài sản riêng lẻ liên kết với nhau trong mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ phận nào đó mà cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính của nó, mà yêu cầu quản lý đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận tài sản đó được coi là một tài sản cố định hữu hình độc lập. Ví dụ: khung và động cơ trong một máy bay.
* Tài sản cố định vô hình: là những tài sản cố định không có hình thái vật chất thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.Ví dụ: chi phí sử dụng đất, chi phí bằng phát minh sáng chế...
Tiêu chuẩn nhận biết tài sản cố định vô hình: mọi khoản chi phí thực tế doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nếu đồng thời thoả mãn cả hai điều kiện trên mà không thành tài sản cố định hữu hình thì coi như là tài sản cố định vô hình.
Theo chế độ hiện hành doanh nghiệp phân loại tài sản cố định theo tính chất của tài sản cố định cụ thể là:
+ Tài sản cố định dùng cho mục đích sản xuất kinh doanh gồm: Tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình.
+ Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp an ninh quốc phòng.
+ Tài sản cố định doanh nghiệp bảo quản giữ hộ cho đơn vị khác hoặc giữ hộ nhà nước theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thông qua quá trình tìm hiểu về tài sản cố định ở trên ta có thể đưa ra kết luận vốn cố định là biểu hiện bằng tiền giá trị của tài sản cố định,sự vận động của vốn cố định chính là sự vận động giá trị tài sản cố định, trong quá trình sản xuất kinh doanh nó sẽ luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. Vốn cố định là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trước hết doanh nghiệp phải làm tốt công quản lý, tổ chức phân bổ và sử dụng vốn cố định.
b)Vốn lưu động:
Nếu mỗi doanh nghiệp chỉ có vốn cố định điều đó sẽ không đảm bảo chu kỳ sản xuất kinh doanh được bình thường, như vậy phải có vốn lưu động, đó là nguồn vốn hình thành trên tài sản lưu động, là lượng tiền ứng trước để có tài sản lưu động. Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và chuyển dịch một lần toàn bộ giá trị vào sản phẩm tạo nên thực tế sản phẩm.. Đặc điểm của tài sản lưu động và tài sản cố định lúc nào cũng nhất trí với nhau do đó phải giảm tối thiểu sự chênh lệch thời gian này để tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Cơ cấu vốn lưu động là tỉ lệ giữa các bộ phận cấu thành vốn lưu động và mối quan hệ giữa các loại và của mỗi loại so với tổng số.
Xác định cơ cấu vốn lưu động hợp lý có ý nghĩa quan trọng trong công tác sử dụng có hiệu quả vốn lưu động.Nó đáp ứng yêu cầu về vốn trong từng khâu, từng bộ phận, trên cơ sở đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Để quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả thì việc phân loại vốn lưu động là rất cần thiết. Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn lưu động được chia làm 3 loại:
+ Vốn dự trữ: là bộ phận vốn dùng để mua nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế và dự trữ đưa vào sản xuất.
+ Vốn trong sản xuất: là bộ phận vốn trực tiếp dùng cho giai đoạn sản xuất như sản phẩm dở dang, chờ chi phí phân bổ.
+ Vốn trong lưu thông: là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông như: thành phẩm , vốn bằng tiền mặt.
Căn cứ vào việc xác định vốn người ta chia vốn lưu động thành hai loại:
+ Vốn định mức: là vốn lưu động quy định mức tối thiểu cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm vốn dự trữ, vốn trong sản xuất, sản phẩm hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm, vật tư thuê ngoài chế biến...
+ Vốn lưu động không định mức: là số vốn không phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng không có căn cứ để tính toán định mức như: thành phẩm trên đường gửi đi, vốn kế toán...
Căn cứ vào hình thái biểu hiện vốn lưu động bao gồm :
+ Tiền mặt và chứng khoán có thể bán được
+ Các khoản phải thu
+ Các khoản dự trữ , vật tư hàng hoá
Căn cứ vào nguồn hình thành vốn lưu động bao gồm:
+ Vốn lưu động bổ xung là số vốn doanh nghiệp tự bổ xung từ lợi nhuận, các khoản tiền phải trả nhưng chưa đến hạn như tiền lương, tiền nhà...
+ Vốn lưu động do ngân sách cấp: là loại vốn mà doanh nghiệp nhà nước được nhà nước giao quyền sử dụng.
+ Vốn liên doanh liên kết: là vốn do doanh nghiệp nhận liên doanh, liên kết với các đơn vị khác.
+ Vốn tín dụng: là vốn mà doanh nghiệp vay ngân hàng và các đối tượng khác để kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp cần phải xác định cho mình một cơ cấu vốn lưu động hợp lý hiệu quả.Đặc biệt quan hệ giữa các bộ phận trong vốn lưu động luôn thay đổi nên người quản lý cần phải nghiên cứu để đưa ra một cơ cấu phù hợp với đơn vị mình trong từng thời kỳ, từng giai đoạn.
1.1.2.2. Căn cứ vào thời hạn luân chuyển, vốn được chia thành các loại sau:
- Vốn ngắn hạn: Là nguồn tài trợ mà sau khi huy động thời gian sử dụng vốn ngắn (dưới 1 năm), doanh nghiệp chỉ có thể sử dụng vốn huy động từ những nguồn này để đáp ứng nhu cầu tạm thời về vốn phát sinh bất thường trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nguồn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổchức tín dụng, các khoản nợ người cung cấp, nợ tiền lương và bảo hiểm của người lao động...
- Vốn trung và dài hạn: Là loại vốn có thời hạn luân chuyển từ một năm trở lên. Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng dài hạn vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như đầu tư mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có ưu điểm là giúp cho doanh nghiệp giải quyết được nhiều vấn đề có tính chất dài hạn mà không gặp khó khăn trong vấn đề thanh toán hoàn trả. Nguồn tài trợ dài hạn có thể nhận được dưới hình thức vay nợ dài hạn, vốn cổ phần hoặc mua bán trao đổi các công cụ tài trợ dài hạn trên thị trường vốn như: cổ phiếu, trái phiếu... và các hình thức tài trợ tín dụng khác.
1.1.2.3. Căn cứ theo nguồn hình thành:
Theo cách phân loại này vốn của doanh nghiệp bao gồm: Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, ngoài số vốn tự có và coi như tự có thì doanh nghiệp còn phải sử dụng một khoản vốn khá lớn đi vay của ngân hàng. Bên cạnh đó còn có khoản vốn chiếm dụng lẫn nhau của các đơn vị nguồn hàng, khách hàng và bạn hàng. Tất cả các yếu tố này hình thành nên khoản nợ phải trả của doanh nghiệp.
- Nợ phải trả: Là khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả cho các tác nhân kinh tế như nợ vay ngân hàng, nợ vay của các chủ thể kinh tế, nợ vay của cá nhân, phải trả cho người bán, phải nộp ngân sách...
-Vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp và các thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong công ty cổ phần. Có ba nguồn cơ bản tạo nên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, đó là:
+ Vốn kinh doanh: Gồm vốn góp (Nhà nước, các bên tham gia liên doanh, cổ đông, các chủ doanh nghiệp) và phần lãi chưa phân phối của kết quả sản xuất kinh doanh.
+ Chênh lệch đánh giá lại tài sản (chủ yếu là tài sản cố định): Khi nhà nước cho phép hoặc các thành viên quyết định.
+ Các quỹ của doanh nghiệp: Hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh như: quỹ phát triển, quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng phúc lợi.
Ngoài ra, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm vốn đầu tư xây dựng cơ bản và kinh phí sự nghiệp (khoản kinh phí do ngân sách nhà nước cấp, phát không hoàn lại sao cho doanh nghiệp chi tiêu cho mục đích kinh tế lâu dài, cơ bản, mục đích chính trị xã hội...).
1.1.3. Vai trò của vốn trong hoạt động doanh nghiệp.
Kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh là sản phẩm.Sản phẩm của doanh nghiệp có thể là hàng hoá, dịch vụ, có thể tồn tại ở hình thức vật chất hay phi vật chất, nhưng chúng đều là kết quả của quá trình dùng sức lao động và tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để làm biến đổi nó. Tư liệu lao động và đối tượng lao động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Vì vậy, có thể nói vốn (biểu hiện băng tư liệu lao động và đối tượng lao động) có vai trò quan trọng cho sự ra đời, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Song, trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, các xí nghiệp quốc doanh đều được ngân sách nhà nước tài trợ vốn, nếu thiếu vốn sẽ được ngân hàng cho vay với lãi suất ưu đãi. Đối với cơ chế bao cấp nặng nề như vậy nên vai trò khai thác , thu hút vốn của doanh nghiệp không được đặt ra như một nhu cầu cấp bách, có tính sồng còn đối với doanh nghiệp. Chế độ cấp phát, giao nộp một mặt đã thủ tiêu tính cơ động của doanh nghiệp, mặt khác lại tạo ra sự cân đối giả tạo về quan hệ cung- cầu vốn trong nền kinh tế. Đây là lý do chủ yếu tại sao trong thời kỳ bao cấp lại vắng mặt, không vần thiết có thị trường vốn.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, vốn kinh doanh có tầm quan trọng đặc biệt trong các doanh nghiệp. Và nền kinh tế thị trường thực sự là môi trường để cho vốn bộc lộ đầy đủ bản chất, vai trò và tầm quan trọng của nó.
Thứ nhất, Vốn kinh doanh của sn có vai trò quyết định cho việc thành lập, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp. Vì vốn là một yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh, là điều kiện vật chất không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong phạm vi một doanh nghiệp có thể thấy rằng, điểm xuất phát để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh là có một số vốn đầu tư ban đầu nhất định. Vốn kinh doanh là điều kiện tiền đề cho doanh nghiệp có thể thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nếu không có vốn sẽ không có bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cả, vốn kinh doanh là cơ sở để doanh nghiệp tính toán, hoạch định các chiến lược và kế hoạch kinh doanh. Về mặt pháp lý, tất cả các doanh nghiệp dù ở thành phần kinh tế nào, để được thành lập và đi vào hoạt động thì nhất thiết cần phải có lượng vốn cần thiết tối thiểu theo quy định của nhà nước hay còn gọi là vốn pháp định. Lượng vốn này nhiều hay ít phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp của doanh nghiệp đó.
Thứ hai, Vốn kinh doanh giúp các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh mọt cách liên tục có hiệu quả. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn kinh doanh của một doanh nghiệp không ngừng được tăng lên tương ứng với sự tăng trưởng quy mô sản xuất, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành một cách liên tục. Nếu doanh nghiệp thiếu vốn kinh doanh sẽ gây ra những tổn thất như : sản xuất đình trệ, không đảm bảo thực hiện các hợp đồng đã ký kết với khách hàng, không đủ tiền để thanh toán với nhà cung ứng kịp thời dẫn tới mất tín nhiệm trong quan hệ mua bán, và do đó sẽ không giữ được khách hàng...Những khó khăn đó kéo dàn nhất định sẽ dẫn đến thua lỗ, phá sải doanh nghiệp.
Điều đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn bảo đảm đầy đủ, kịp thời vốn kinh doanh cho quá trinhd sản xuất, đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ ba, Vốn kinh doanh là một trong những tiêu thức để phân loại quy mô của doanh nghiệp xếp loại doanh nghiệp vào loại lớn, nhỏ hay trung bình và là một trong những tiềm năng quan trọng để doanh nghiệp sử dụng hiệu quả nguồn lực hiện có và tương lai về sức lao động, nguồn cung ứng, phát triển mở rộng thị trường.
Thứ tư, Vốn kinh doanh không những là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp khẳng định được chỗ đứng của mình mà còn là điều kiện thuận lợi tạo nên sự cạnh tranh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Trong cơ chế thị trường, dưới tác động của quy luật canh tranh, cùng với khát vọng lợi nhuận, các doanh nghiệp phải không ngừng phát triển vốn kinh doanh của mình, cho nên nhu cầu về vốn kinh doanh của doanh nghiệp là rất lớn. Để đảm bảo chiến thắng trong cạnh tranh, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tât yếu các doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu cầu thị trường, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm, hạ giá thành. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phai có nhiều vốn. Vốn đã trở thành động lực và là yêu cầu cấp bách đối với tất cả các doanh nghiệp. Chỉ có vốn trong tay mới có thể giúp doanh nghiệp đầu tư hiện đại hoá sản xuất, tồn tại trong môi trường cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận. Nhu cầu về vốnđể đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cho sự phát triển ngành nghề mới đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết với tất cả các doanh nghiệp nói chung cũng như doanh nghiệp t