1.1. Khái niệm phân tích tài chính
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp, công cụ theo một hệ thống nhất định cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán cũng như các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp, giúp nhà quản lý kiểm soát tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như dự đoán trước những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai để đưa các quyết định xử lý phù hợp tùy theo mục đích theo đuổi.
1.2 Đối tượng của phân tích tài chính:
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có hoạt động trao đổi điều kiện và kết quả sản xuất thông qua những công cụ tài chính và vật chất. Chính vì vậy, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải tham gia vào các mối quan hệ tài chính đa dạng và phức tạp. Các quan hệ tài chính đó có thể chia thành các nhóm chủ yếu sau:
Thứ nhất: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước
Thứ hai: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính và các tổ chức tài chính.
Thứ ba: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường khác huy động các yếu tố đầu vào (Thị trường hàng hóa, dịch vụ lao động ) và các quan hệ để thực hiện tiêu thụ sản phẩm ở thị trường đầu ra (Với các đại lý, các cơ quan xuất nhập khẩu, thương mại ).
Thứ tư: Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp
1.3 Mục đích, ý nghĩa của phân tích báo cáo tài chính:
Có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng Mỗi đối tượng quan tâm với các mục đích khác nhau nhưng thường liên quan với nhau.
Đối với chủ doanh nghiêp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Ngoài ra, các nhà quản trị doanh nghiệp còn quan tâm đến mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện các mục tiêu này nếu họ kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và buộc phải đóng cửa, còn nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn trả cũng buộc phải ngừng hoạt động.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của họ hướng chủ yếu vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp.Vì vậy họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp, bên cạnh đó họ cũng rất quan tâm đến số lượng vốn chủ sở hữu vì đó là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro.
Đối với các nhà đầu tư, họ quan tâm đến lợi nhuận bình quân vốn của công ty, vòng quay vốn, khả năng phát triển của doanh nghiệp Từ đó ảnh hưởng tới các quyết định tiếp tục đầu tư và Công ty trong tương lai.
1.4 Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận được tiến hành trong học kỳ II của đại học khoá 3 ở trường Đại học dân lập Văn Lang. Phạm vi nghiên cứu chủ yếu phân tích tình hình tài chính của công ty cổ phần Vinamilk qua 3 năm 2008-2009- 2010.
1.5 Kết quả nghiên cứu:
Tăng thêm hiểu biết của chúng ta về tài chính công ty và phương phân tích tài chính công ty.
Đưa ra được những giải pháp để khắc phục những khó khăn trên cơ sở phân tích thực trạng về tài chính của công ty.
36 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11069 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính của công ty VinaMilk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP VĂN LANG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Môn học: TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1
Đề tài: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY VINAMILK
Lớp K15TC5
Họ và tên sv:Tạ Huy Dũng
Mssv:F097778
Gv:Ths Trần Thanh Vũ
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
II. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY VINAMILK
I. Giới thiệu về công ty
II. Lịch sử hình thành
III. Cơ cấu tổ chức Công ty
IV. Cơ cấu bộ máy quản lý Công ty
V. Ngành nghề kinh doanh
VI. Vị thế Công ty
VII. Mục tiêu hoạt động của Vinamilk
VIII. Hoạt động của công ty
IX. Những thành tựu Vinamilk đạt được
X. Các định hướng và chiến lược của Vinamilk trong những năm tiếp theo
XI. Phân tích tình hình tài chính của công ty
CHƯƠNG IIII: KẾT LUẬN
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm phân tích tài chính
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp, công cụ theo một hệ thống nhất định cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán cũng như các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp, giúp nhà quản lý kiểm soát tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như dự đoán trước những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai để đưa các quyết định xử lý phù hợp tùy theo mục đích theo đuổi.
1.2 Đối tượng của phân tích tài chính:
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có hoạt động trao đổi điều kiện và kết quả sản xuất thông qua những công cụ tài chính và vật chất. Chính vì vậy, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải tham gia vào các mối quan hệ tài chính đa dạng và phức tạp. Các quan hệ tài chính đó có thể chia thành các nhóm chủ yếu sau:
Thứ nhất: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước
Thứ hai: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính và các tổ chức tài chính.
Thứ ba: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường khác huy động các yếu tố đầu vào (Thị trường hàng hóa, dịch vụ lao động…) và các quan hệ để thực hiện tiêu thụ sản phẩm ở thị trường đầu ra (Với các đại lý, các cơ quan xuất nhập khẩu, thương mại…).
Thứ tư: Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp
1.3 Mục đích, ý nghĩa của phân tích báo cáo tài chính:
Có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng…Mỗi đối tượng quan tâm với các mục đích khác nhau nhưng thường liên quan với nhau.
Đối với chủ doanh nghiêp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Ngoài ra, các nhà quản trị doanh nghiệp còn quan tâm đến mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí…Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện các mục tiêu này nếu họ kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và buộc phải đóng cửa, còn nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn trả cũng buộc phải ngừng hoạt động.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của họ hướng chủ yếu vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp.Vì vậy họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp, bên cạnh đó họ cũng rất quan tâm đến số lượng vốn chủ sở hữu vì đó là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro.
Đối với các nhà đầu tư, họ quan tâm đến lợi nhuận bình quân vốn của công ty, vòng quay vốn, khả năng phát triển của doanh nghiệp…Từ đó ảnh hưởng tới các quyết định tiếp tục đầu tư và Công ty trong tương lai.
1.4 Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận được tiến hành trong học kỳ II của đại học khoá 3 ở trường Đại học dân lập Văn Lang. Phạm vi nghiên cứu chủ yếu phân tích tình hình tài chính của công ty cổ phần Vinamilk qua 3 năm 2008-2009- 2010.
1.5 Kết quả nghiên cứu:
Tăng thêm hiểu biết của chúng ta về tài chính công ty và phương phân tích tài chính công ty.
Đưa ra được những giải pháp để khắc phục những khó khăn trên cơ sở phân tích thực trạng về tài chính của công ty.
II. Phương pháp phân tích tài chính
2.1 Các bước trong quá trình tiến hành phân tích tài chính:
2.1.1 Thu thập thông tin:
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng giải và thuyết minh hoạt động tài chính,hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,phục vụ cho quá trình dự đoán,đánh giá ,lập kế hoạch.Nó bao gồm những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, những thông tin kế toán, những thông tin quản lý khác và những thông tin về số lượng và giá trị.Trong đó thông tin kế toán là quan trọng nhất được phản ánh trong các báo cáo tài chính doanh nghiệp, đó là những nguồn thông tin đặc biệt quan trọng. Do vậy trên thực tế phân tích tài chính là phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp
2.1.2 Xử lý thông tin:
Xử lý thông tin là quá trình sắp xếp thông tin theo một mục tiêu nhất định để nhằm tính toán, so sánh, đánh giá, xác định nguyên nhân của kết quả đạt được nhằm phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định.
2.1.3 Dự toán và ra quyết định:
Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần thiết để người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra các quyết định hoạt động kinh doanh.Đối với chủ doanh nghiệp, phân tích hoạt động tài chính nhằm đưa ra các quyết định liên quan đến mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng trưởng, phát triển, tối đa hóa lợi nhuận, tối đa hóa doanh thu. Đối với người cho vay và đầu tư vào doanh nghiệp thì đưa ra các quyết định về tài trợ đầu tư, đối với cấp trên của doanh nghiệp thì đưa ra các quyết định quản lý doanh nghiệp.
2.1.4 Các thông tin cơ sở để phân tích hoạt động tài chính
Bảng cân đối kế toán : là bảng báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Nó gồm được thành lập từ 2 phần: tài sản và nguồn vốn.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: là một báo cáo tài chính tổng hợp,phản ánh một cách tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một niên độ kế toán, dưới hình thức tiền tệ. Nội dung của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể thay đổi nhưng phải phản ánh 4 nội dung cơ bản: doanh thu, giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý, lãi, lỗ.
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY VINAMILK
I. Giới thiệu về Công ty
Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam được thành lập trên cơ sở quyết định số 155/2003QĐ- BCN ngày 01 tháng 10 năm 2003 của Bộ Công nghiệp về việc chuyển Doanh nghiệp Nhà nước Công ty Sữa Việt Nam thành Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam. Giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh Công ty số 4103001932 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hồ Chí Minh cấp ngày 20/11/2003. Trước ngày 1 tháng 12 năm 2003, Công ty là doanh nghiệp Nhà nước
trực thuộc Bộ Công nghiệp.
- Tên đầy đủ: Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam
- Tên viết tắt: VINAMILK
- Logo:
- Trụ sở: 36 - 38 Ngô Đức Kế, Quận 1, Tp Hồ Chí Minh
- Văn phòng giao dịch: 184–186–188 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, Tp Hồ Chí Minh
- Điện thoại: (08) 9300 358 Fax: (08) 9305 206
- Web site: www.vinamilk.com.vn
- Email: vinamilk@vinamilk.com.vn
Vốn Điều lệ của Công ty Sữa Việt Nam hiện nay: 1.590.000.000.000 VND (Một ngàn năm trăm chín mươi tỷ đồng).
II. Lịch sử hình thành
Năm 1976, lúc mới thành lập, Công ty Sữa Việt Nam (VINAMILK) có tên là Công ty Sữa – Cà Phê Miền Nam, trực thuộc Tổng Cục thực phẩm, bao gồm 4 nhà máy thuộc ngành chế biến thực phẩm:
- Nhà máy Sữa Thống Nhất;
- Nhà máy Sữa Trường Thọ;
- Nhà máy Sữa Dielac;
- Nhà máy Cà Phê Biên Hoà.
Năm 1982, Công ty Sữa – Cà phê Miền Nam được chuyển giao về Bộ Công nghiệp thực phẩm và đổi tên thành Xí nghiệp Liên hiệp Sữa - Cà phê – Bánh kẹo I.
Năm 1989, Xí Nghiệp Liên Hiệp Sữa – Cà phê – Bánh kẹo I chỉ còn 3 nhà máy trực thuộc:
- Nhà máy Sữa Thống Nhất.
- Nhà máy Sữa Trường Thọ.
- Nhà máy Sữa Dielac.
Tháng 3/1992, Xí Nghiệp Liên Hiệp Sữa – Cà phê – Bánh kẹo I chính thức đổi tên thành Công ty Sữa Việt Nam (VINAMILK) - trực thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ, chuyên sản xuất, chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa.
Năm 1994, Công ty Sữa Việt Nam (VINAMILK) đã xây dựng thêm một nhà máy sữa ở Hà Nội để phát triển thị trường tại miền Bắc, nâng tổng số nhà máy trực thuộc lên 4 nhà máy:
- Nhà máy Sữa Thống Nhất
- Nhà máy Sữa Trường Thọ
- Nhà máy Sữa Dielac
- Nhà máy Sữa Hà Nội
Năm 1996, Xí nghiệp Liên doanh Sữa Bình Định tại Quy Nhơn ra đời, góp phần thuận lợi đưa sản phẩm Vinamilk phục vụ rộng khắp đến người tiêu dùng khu vực miền Trung.
Năm 2000, Công ty đã tiến hành xây dựng thêm:
- Nhà máy sữa Cần Thơ
- Xí nghiệp Kho vận;
Tháng 12/2003, Công ty chuyển sang hình thức Công ty cổ phần, chính thức đổi tên là Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam.
Tháng 04/2004: Công ty sáp nhập nhà máy sữa Sài Gòn (SAIGONMILK), nâng tổng vốn điều lệ của Công ty lên 1.590 tỷ đồng
Tháng 06/2005: Công ty mua lại phần vốn góp của đối tác trong Công ty Sữa Bình Định và sáp nhập vào Vinamilk
Ngày 30/06/2005: Công ty khánh thành nhà máy sữa Nghệ An
III. Cơ cấu tổ chức Công ty:
Trụ sở chính Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam
- Trụ sở: 36 - 38 Ngô Đức Kế, Quận 1, TP Hồ Chí Minh
- Văn phòng giao dịch: 184–186–188 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, Tp Hồ Chí Minh
- Điện thoại: (08) 9300 358 Fax: (08) 9305 206
IV. Cơ cấu bộ máy quản lý Công ty
4.1 .Đại hội đồng cổ đông:
Là cơ quan có thẩm quyền cao nhất quyết định mọi vấn đề quan trọng của Công ty theo Luật doanh nghiệp và Điều lệ Công ty. ĐHĐCĐ là cơ quan thông qua chủ trương chính sách đầu tư dài hạn trong việc phát triển Công ty, quyết định cơ cấu vốn, bầu ra cơ quan quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của Công ty.
4.2. Hội đồng quản trị:
Là cơ quan quản lý Công ty có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết định mọi vấn đề
liên quan đến mục đích quyền lợi của Công ty, trừ những vấn đề thuộc ĐHĐCĐ quyết định.
Định hướng các chính sách tồn tại và phát triển để thực hiện các quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua việc hoạch định chính sách, ra nghị quyết hành động cho từng thời điểm phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty.
4.3. Ban kiểm soát: Do ĐHĐCĐ bầu, thay mặt cổ đông kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh, quản trị và điều hành của Công ty
4.4. Tổng Giám đốc:
Do Hội đồng quản trị bổ nhiệm, bãi nhiệm, là người đại diện theo pháp luật của Công ty, chịu trách nhiệm trước HĐQT, quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động hàng ngày của Công ty
V. Ngành nghề kinh doanh
Sữa nước cho gia đình: sữa tươi nguyên chất, sữa tiệt trùng flax
Sữa nước cho trẻ em : sữa tiệt trùng Milk kid
Sữa chua : sữa chua ăn, sữa chua uống, sữa chua men sống probi
Sữa bột:
Sữa bột dành cho bà mẹ mang thai và cho con bú :Dielac Mama
Sữa bột dành cho trẻ em:Dielac Alpha( Dielac Alpha step 1, Dielac Alpha step 2, Dielac Alpha 123, Dielac Alpha 456)
Sữa bột dành cho trẻ biếng ăn và suy dinh dưỡng: Dielac Pedia
Sữa đặc có đường :Ông thọ và Ngôi sao Phương Nam
Kem
Phômai
Cà phê : Vinamilkcafe
Vfresh: sữa đậu nành vfresh
Nước giải khát : sâm bí đao Vfresh
Bên cạnh đó, thì Vinamilk đã tung ra nhiều sản phẩm mới ra thị trường nhằm thu hút người tiêu dùng hơn và làm đa dạng các sản phẩm của công ty:
Năm 2009 thì tung ra 12 sản phẩm gồm sữa tiệt trùng hương dâu, hương socola, sữa giảm cân dành cho người thừa cân béo phì, sâm bí đao hương chanh, sâm bí đao thạch tảo, nước cam sữa, sữa chua gừng, café hoà tan các loại.
Năm 2010 thì hơn 20 loại sản phẩm bao gồm sữa chua ăn lợi khuẩn( probiotics), nước uống Artiso, trà xanh hương chanh, nước táo, nước cam, trà bí đao, sữa tiệt trùng bổ sung vi chất và các loại bột dinh dưỡng.
VI. Vị thế công ty:
Theo kết quả bình chọn 100 thương hiệu mạnh nhất Việt Nam, Vinamilk là thương hiệu thực phẩm số 1 của Việt Nam chiếm thị phần hàng đầu, đạt tốc độ tăng trưởng 20 – 25%/năm, được người tiêu dùng tín nhiệm và liên tiếp được bình chọn là sản phẩm đứng đầu TOPTEN hàng Việt Nam chất lượng cao 8 năm liền 1997-2004. Doanh thu nội địa tăng trung bình hàng năm khoảng 20% - 25%.
Vinamilk đã duy trì được vai trò chủ đạo của mình trên thị trường trong nước và cạnh tranh có hiệu quả với các nhãn hiệu sữa của nước ngoài. Một trong những thành công của Vinamilk là đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu của tất cả các đối tượng khách hàng từ trẻ sơ sinh, trẻ em, thanh thiếu niên, người lớn, người có nhu cầu đặc biệt.
VII.Mục tiêu hoạt động của Vinamilk:
Tầm nhìn:
Trở thành biểu tượng niềm tin số 1 VN về dinh dưỡng và sức khỏe phục vụ cho cuộc sống con người, đứng vào hàng ngũ 50 công ty sữa hàng đầu thế giới.
Sứ mệnh:
Vinamilk cam kết mang lại cho cộng đồng nguồn dinh dưỡng tốt nhất, chất lượng nhất bằng chính sự trân trọng tình yêu và trách nhiệm cao của mình với cuộc sống con người và xã hội.
VIII.Hoạt động của công ty:
Năm 2008:
Nền kinh tế Việt nam trải qua một năm đặc biệt khó khăn.Trong lĩnh vực thực phẩm, ảnh hưởng nghiêm trọng từ sữa nhiễm melamine từ Trung Quốc đã tác động tiêu cực đến sức mua của người tiêu dùng. Tuy nhiên, Vinamilk vẫn tiếp tục vươn cao và khẳng định uy tín thương hiệu của mình không những trong nước mà cả trên thị trường quốc tế. Năm 2008, Vinamilk tiếp tục là công ty sữa hàng đầu Việt nam với tổng doanh thu 8.381 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế là 1.371 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế là 1.249 tỷ đồng, lãi suất trên(EPS) là 7.132 đồng/cổ phiếu. Cùng với sự phát triển đó, Vinamilk bắt đầu triển khai các dự án mở rộng và triển khai các mặt hàng phát triển nước giải khát có lợi cho sức khoẻ và dự án quy hoạch lại quy mô sản xuất sữa tại miền Nam.
Năm 2009:
Kinh tế Việt nam năm 2009 trải qua nhiều biến động do khủng hoảng tài chính của thế giới và khó khăn trong nội tại nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt nam đạt 5,32%, thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu sụt giảm. Thu hút trực tiếp của nước ngoài giảm 70% so với năm 2008. Thị trường chứng khoán dao động mạnh….
Nhưng trong bối cảnh đó, Vinamilk vẫn tiếp tục tăng trưởng ấn tượng và vị trí dẫn đầu thị trường sữa của mình. Kết thúc năm 2009, tổng doanh thu mà công ty đạt được là 10.820 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế là 2.731 tỉ đồng, lợi nhuận sau thuế là 2.376 tỷ đồng, lãi cơ bản trên (EPS) là 6.769 đồng/cổ phiếu. Cùng với sự phát triển đó thì công ty đã đạt được kết quả rất khả quan như:
Hệ thống phân phối: số điểm lẻ mà Vinamilk bao phủ cuối năm 2009 là 135.000 điểm, tiến hành cải tổ lại cấu trúc của hệ thống phân phối theo hướng chuẩn hoá kênh truyền thống làm xương sống cho hệ thống phân phối, tạo nền tảng cho đà phát triển của năm sau.
Nhiều sản phẩm mới được ra đời
Đầu tư vào tài sản cố định
Nâng cao chất lượng, môi trường và quản lí chất lượng được nâng cao, cải thiện.
Mở rộng nguồn nguyên liệu….
Năm 2010:
Mặc dù năm 2010 còn nhiều khó khăn, nhưng với nỗ lực của công ty và sự tin tưởng của người tiêu dùng, công ty đã đạt được kết quả cao nhất từ trước đến nay.
Năm 2010, công ty đã đạt được tổng doanh thu là 16.081 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế là 4.251 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 3.616 tỷ đồng, lãi cơ bản trên (EPS) là 10.251đồng/cổ phiếu. Cùng với sự phát triển đó thì công ty cũng đã đạt được nhiều kết quả cao:
Hệ thống phân phối: số điểm bán lẻ mà công ty bao phủ cuối năm 2010 là 140.000 điểm.
Tung ra nhiều sản phẩm mới
Đầu tư tài sản cố định
Môi trường và chất lượng: ngày càng được nâng cao qua mỗi năm.
Vùng nguyên liệu: cũng được mở rộng hơn
Các chỉ tiêu doanh số và lợi nhuận được đặt ra công ty đều vượt:
Những khó khăn mà VINAMILK gặp phải
Trong năm 2008:
Rủi ro chất lượng sản phẩm. Tương tự như các công ty trong lĩnh vực thực phẩm,rủi ro quản trị chất lượng luôn là một rủi ro thường trực của Vinamilk, đặc biệt hiện có nhiều thông tin không tích cực về chất lượng sữa tại Việt Nam. Tuy nhiên thời gian qua Vinamilk đã quản trị chất lượng đầu ra tốt và chưa gặp những rủi ro về chất lượng sản phẩm như một số công ty trong cùng ngành.
Phòng Cảnh sát môi trường (CSMT) Công an Tiền Giang cho biết, kết quả xét nghiệm mẫu sữa tươi tiệt trùng do Công ty CP sữa Việt Nam (Vinamilk) sản xuất ngày 20.8.2008 (hạn sử dụng ngay 20.02.2009) bị nhiễm khuẩn, có 4/7 chỉ tiêu vi sinh vượt chuẩn cho phép, trong đó có cả vi khuẩn Coliforms và E.coli.
Sau đó, VINAMILK đã khẳng định: Việc sữa nhiễm khuẩn không thuộc khâu sản xuất mà do lỗi trong quá trình bảo quản của khâu phân phối và lưu thông, bao bì bị hở mí ghép nên vi khuẩn bên ngoài xâm nhập vào. Các sản phẩm khác trong cùng lô hàng sản xuất ngày 20/08/2008 và mẫu lưu tại nhà máy đều đảm bảo chất lượng như công ty đã công bố.Vinamilk còn đưa ra khuyến cáo: "Sản phẩm sữa đòi hỏi người tiêu dùng và cả người bán hàng đều phải bảo quản trong điều kiện môi trường và nhiệt độ mát, khô, thoáng, tránh để chuột, gián và côn trùng cắn rách bao bì sẽ tạo điều kiện để vi khuẩn xâm nhập làm hư hỏng sản phẩm".
Trong năm 2009:
Đầu năm 2009, tại khu vực phía Bắc đã xảy ra vụ lùm xùm về việc thu mua sữa nguyên liệu của người nông dân của các công ty sữa. Giá sữa quá rẻ khiến người nông dân phải đổ sữa đi.
Nhưng cuối cùng, vụ việc này đã có kết thúc có hậu khi người nông dân và các công ty sữa cũng đã đạt được thoả thuận.
Vinamilk ít quan tâm đến marketing trực tiếp, chủ yếu thông qua các kênh trung gian như các đại lý, siêu thị để phân phối sản phẩm của mình tới tay người tiêu dùng.
Tuy nhiên, Vinamilk có những con người biết làm việc và cầu tiến và bộ phận marketing đã đặt ra chiến lược là phải tạo ra nhiều dòng sản phẩm, với những mẫu mã đa dạng, đẹp mắt để sữa không chỉ bổ, ngon mà còn hấp dẫn, phù hợp với cuốc sống hiện đại. Uống sữa như một phần tất yếu trong cuộc sống năng động hiện đại. Vinamilk không phải bán sữa mà trao cho người tiêu dùng cuộc sống vui khoẻ, năng động, lành mạnh, hiện đại.
Rủi ro từ việc gia nhập WTO: Hiện nay, các công ty sản xuất sữa trong nước đang chịu sức ép ngày càng gia tăng do việc giảm thuế cho sữa ngoại nhập khẩu theo chính sách cắt giảm thuế quan của Việt Nam khi thực hiện các cam kết CEPT/AFTA của khu vực ASEAN và cam kết với Tổ chức thương mại thế giới WTO. Bên cạnh đó, tâm lý sính ngoại của người dân Việt Nam sẽ là cản trở lớn trên con đường củng cố vị trí số 1 trên thị trường sữa Việt Nam.
Trong năm 2010:
Thách thức về nguồn nguyên liệu và tỷ giá
Một thị trường sữa phát triển đầy đủ phải cung cấp vài chục đến vài trăm lít sữa/người/năm, trong khi thị trường Việt Nam chỉ được khoảng vài lít sữa/người/năm. Con số này sẽ còn tăng lên, kéo theo sức ép cho bài toán tăng trưởng của Vinamilk, mà cốt lõi là ở câu chuyện nguồn nguyên vật liệu.
Vinamilk chủ động nguồn nguyên liệu bằng cách chủ động xây dựng những nhà máy hiện đại để tăng sản lượng và đa dạng hóa các sản phẩm về sữa.
Các kế hoạch đầu tư đó là chúng tôi chủ động, chủ động cả nguồn vốn. Từ trước đến nay hầu như Vinamilk không đi vay vì có lợi nhuận và tái đầu tư hiệu quả để thu hồi vốn nhanh.
Sự phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu cho thấy những dấu hiệu bất ổn. Đầu tiên là vấn đề tỉ giá. Hiện nay, trước sự giảm giá của tiền đồng và nhiều chuyên gia kinh tế còn dự báo tiền đồng sẽ còn tiếp tục hạ giá thì với hơn 70% nguồn nguyên liệu sữa nhập ngoại đây sẽ là rủi ro lớn cho Vinamilk. Thứ hai là việc các nhà cung ứng nguyên liệu quốc tế cũng đang loay hoay trong bài toán nuôi bò hay nuôi người. Tình hình người tăng, bò giảm dẫn đến