Văn bản pháp luật đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước và xã hội. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu quản lí xã hội bằng pháp luật ngày càng cao thì việc phải xử lý những văn bản pháp luật khiếm khuyết ngày càng trở nên quan trọng và mang tính cấp thiết hiện nay. Do đó, em chọn đề “Phân tích và bình luận những biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết” làm đề tài cho bài tập lớn của mình, hy vọng sẽ giúp ích phần nào trong công tác hoàn thiện pháp luật.
9 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2762 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích và bình luận những biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I – Một số khái niệm:
1. Văn bản pháp luật: (VBPL)
2. Văn bản pháp luật khiếm khuyết
3. Xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết:
II - Những biểu hiện của văn bản pháp luật khiếm khuyết:
Các VBPL không đáp ứng được yêu cầu về chính trị:
Các VBPL không đáp ứng yêu cầu về pháp lí:
Các VBPL không đáp ứng được yêu cầu về khoa học:
III – Các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết:
Biện pháp hủy bỏ:
Biện pháp bãi bỏ:
Biện pháp thay thế:
Biện pháp đình chỉ thi hành:
Biện pháp tạm đình chỉ thi hành:
Biện pháp sửa đổi, bổ sung
KẾT LUẬN
MỞ ĐẦU
Văn bản pháp luật đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước và xã hội. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu quản lí xã hội bằng pháp luật ngày càng cao thì việc phải xử lý những văn bản pháp luật khiếm khuyết ngày càng trở nên quan trọng và mang tính cấp thiết hiện nay. Do đó, em chọn đề “Phân tích và bình luận những biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết” làm đề tài cho bài tập lớn của mình, hy vọng sẽ giúp ích phần nào trong công tác hoàn thiện pháp luật.
NỘI DUNG
I – Một số khái niệm:
1. Văn bản pháp luật: (VBPL)
VBPL là những văn bản được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định, chứa đựng ý chí của nhà nước nhằm đạt được mục tiêu quản lí và được nhà nước đảm bảo thực hiện.
2. Văn bản pháp luật khiếm khuyết:
Văn bản pháp luật khiếm khuyết được hiểu là VBPL “còn thiếu sót, chưa hoàn chỉnh” không đảm bảo về chất lượng mà nhà nước yêu cầu.
3. Xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết:
Xử lí VBPL khiếm khuyết là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc ra phán quyết đối với những văn bản pháp luật khiếm khuyết.
II – Những biểu hiện của văn bản pháp luật khiếm khuyết:
VBPL khiếm khuyết là văn bản có một trong những biểu hiện sau đây:
Các VBPL không đáp ứng được yêu cầu về chính trị:
Các VBPL không đáp ứng được yêu cầu về chính trị là các VBPL ( chủ yếu là các VBQPPL) có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của đảng. Các VBPL có nội dung không phù hợp với ý chí và lợi ích chính đáng của nhân dân cũng bị coi là khiếm khuyết về chính trị.
Các VBPL không đáp ứng yêu cầu về pháp lí bao gồm:
a. VBPL vi phạm về thẩm quyền ban hành: bao gồm VBPL vi phạm thẩm quyền về nội dung và VBPL vi phạm thẩm quyền về hình thức:
-VBPL vi phạm thẩm quyền về hình thức là VBPL có tên gọi không đúng theo quy định của pháp luật hiện hành: Cơ quan ban hành văn bản sử dụng hình thức VBPL thuộc thẩm quyền ban hành của cơ quan khác; Sử dụng không đúng vai trò của văn bản đối với công việc được giải quyết.
-VBPL vi phạm thẩm quyền về nội dung là văn bản mà chủ thể ban hành sử dụng để giải quyết công việc không thuộc thẩm quyền do pháp luật quy định với chủ thể đó: Cơ quan ban hành VBPL giải quyết công việc hoàn toàn không thuộc phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; Chủ thể ban hành VBPL giải quyết công việc vượt thẩm quyền được cho phép.
b. VBPL có nội dung trái với quy định của pháp luật: Các biểu hiện về sự trái pháp luật trong nội dung của VBPL:
-VBPL không viện dẫn hoặc viện dẫn sai những văn bản làm cơ sở pháp lí của văn bản đó.
-Nội dung văn bản quy phạm pháp luật của cấp dưới trái với nội dung văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên; văn bản hành chính có các quy định mang tính quy phạm trái với các quy phạm pháp luật hiện hành.
-Các văn bản áp dụng pháp luật hoặc các văn bản hành chính có nội dung trái với quy định của văn bản quy phạm pháp luật.
-Các mệnh lệnh trong văn bản hành chính không đúng với những mệnh lệnh trong văn bản áp dụng pháp luật mà nó tổ chức thực hiện.
c. VBPL có nội dung không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết: Văn bản quy phạm pháp luật nào chưa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết là lí do để cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành xử lí bằng biện pháp sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ và ban hành mới những văn bản có liên quan đến điều ước quốc tế đó.
d. Văn bản pháp luật có sự vi phạm các quy định về thể thức và thủ tục ban hành biểu hiện:
-VBPL thiếu những đề mục cần thiết hoặc được trình bày các đề mục không đúng quy định của pháp luật.
- VBPL có thể có sự vi phạm về thủ tục trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc không thực hiện những thủ tục là cơ sở để xác định tính hợp pháp cho văn bản áp dụng pháp luật.
Các VBPL không đáp ứng được yêu cầu về khoa học:
a. VBPL có nội dung không phù hợp với thực trạng và quy luật vận động của đời sống xã hội: không có tính khả thi và thực hiện trong thực tế
b. VBPL có sự khiếm khuyết về kĩ thuật pháp lí: vi phạm tính logic, chặt chẽ về nội dung, đúng quy tắc về ngôn ngữ, phân chia, sắp xếp hợp lí.
III – Các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết:
Dựa vào tính chất, mức độ khiếm khuyết của VBPL cùng quy định tại điều 27 nghị định 40/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010 và Điều 9 luật ban hành VBQPPL năm 2008 thì các biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết bao gồm: biện pháp hủy bỏ, biện pháp bãi bỏ, thay thế, đình chỉ thi hành, tạm đình chỉ thi hành, sửa đổi, bổ sung.
Biện pháp hủy bỏ:
a) Khái niệm:
Hủy bỏ là ra quyết định làm mất hiệu lực cả về trước của một văn bản pháp lí kể từ khi văn bản đó được ban hành
Hủy bỏ VBPL là hình thức xử lí nhằm phủ nhận hoàn toàn hiệu lực pháp lí của VBPL kể từ thời điểm văn bản đó được ban hành.
b) Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng:
Hủy bỏ là biện pháp xử lí được áp dụng với toàn bộ hoặc một phần VBPL bao gồm cả văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính có dấu hiệu vi phạm pháp nghiêm trọng như: một phần hoặc toàn bộ văn bản đó được ban hành trái thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội dung hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật từ thời điểm văn bản được ban hành.(khoản 1 điều 29 nghị định 40/2010/NĐ-CP).
c) Hậu quả pháp lí của VBPL bị hủy bỏ:
VBPL bị hủy bỏ sẽ hết hiệu lực pháp luật kể từ khi văn bản đó được quy định là có hiệu lực pháp lí . Điều đó có nghĩa là nhà nước hoàn toàn không thừa nhận giá trị pháp lí của văn bản bị hủy bỏ ở mọi thời điểm, cho dù trên thực tế trước khi bị hủy bỏ nó đã từng được coi là có hiệu lực và có thể đã được thi hành.
Nếu văn bản bị hủy bỏ là văn bản áp dụng pháp luật thì pháp luật còn quy định trách nhiệm bồi thường , bồi hoàn của chủ thể ban hành văn bản theo quy định tại bộ luật Dân sự năm 2005 nếu có thiệt hại xảy ra trên thực tế.
d) Nhận xét:
Hủy bỏ VBPL là một biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết đã được pháp luật quy định hoàn chỉnh. Tuy nhiên còn có một số điểm chưa hợp lí: việc quy định trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành VBPL bị hủy bỏ chỉ được xác định với văn bản áp dụng pháp luật. Nếu VBPL bị hủy bỏ là văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản hành chính thì pháp luật không quy định về trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành, đây là một điểm bất hợp lí. Trên thực tế khi một văn bản quy phạm pháp luật sai trái được áp dụng vào cuộc sống sẽ gây ảnh hưởng xấu trên diện rộng và có thể gây hậu quả nghiêm trọng hơn văn bản áp dụng pháp luật. Vì vậy em cho rằng cần quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với cả văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính.
Biện pháp bãi bỏ:
a) Khái niệm
Bãi bỏ VBPL là hình thức xử lí nhằm chấm dứt hiệu lực pháp lí của một VBPL đang được thi hành trên thực tế từ thời điểm văn bản đó bị bãi bỏ.
b) Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng:
Đối tượng áp dụng biện pháp bãi bỏ: là một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản quy phạm pháp luật có một trong các dấu hiệu khiếm khuyết.
Hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản làm căn cứ ban hành văn bản được kiểm tra đã được thay thế bằng văn bản khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, dẫn đến nội dung của văn bản không còn phù hợp với pháp luật hiện hành hoặc tình hình kinh tế - xã hội.( khoản 2 điều 29 Nghị định Chính phủ 40/2010/NĐ-CP)
c) Hậu quả pháp lí của VBPL bị bãi bỏ:
Văn bản pháp luật bị bãi bỏ chỉ mất hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản xử lí nó có hiệu lực pháp luật. Như vậy pháp luật vẫn thừa nhận giá trị pháp lí của văn bản pháp luật bị bãi bỏ trước khi văn bản xử lí văn bản đó có hiệu lực pháp lí. Do vậy VBPL bị bãi bỏ không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành VBPL khiếm khuyết đó.
d) Nhận xét:
Các quy định của pháp luật về bãi bỏ VBPL khiếm khuyết được quy định trong nhiều văn bản pháp luật tuy nhiên chưa có văn bản pháp luật nào quy định một cách đầy đủ và rõ ràng và phân biêt giữa biện pháp hủy bỏ và bãi bỏ VBPL. Chính vì tình trạng pháp luật quy định chung chung dẫn tới các cơ quan nhà nước khi xử lí VBPL tùy nghi lựa chọn một trong hai biện pháp này thậm chí còn sử dụng chưa nhất quán. Mặc dù tại điều 29 nghị dịnh Chính phủ số 40/2010/NĐ-CP đã có sự tách riêng giữa biện pháp bãi bỏ và hủy bỏ VBPL nhưng mới chỉ nêu được sự khác nhau về trường hợp áp dụng. Chính vì vậy pháp luật nên quy định cụ thể và chi tiết hơn về biện pháp bãi bỏ VBPL để phân biệt với biện pháp hủy bỏ VBPL.
Biện pháp thay thế:
a) Khái niệm:
Thay thế VBPL là dùng một văn bản pháp luật mới thay thế cho một VBPL cũ không còn phù hợp.
b) Trường hợp áp dụng và đối tượng áp dụng:
Biện pháp thay thế được áp dụng với VBPL có dấu hiệu khiếm khuyết (không có vi phạm pháp luật). Thay thế được áp dụng trong trường hợp nội dung của VBPL không còn phù hợp với thực tiễn, không phù hợp với đường lối của Đảng.
c) Hậu quả pháp lí của VBPL bị thay thế:
VBPL bị thay thế hết hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản mới được ban hành hết hiệu lực.
Thẩm quyền thay thế VBPL chỉ thuộc về cơ quan đã ban hành văn bản đó.
e) Nhận xét:
Thay thế là biện pháp xử lí VBPL được sử dụng khá phổ biến hiện nay tuy nhiên pháp luật chưa có một quy định riêng nào về biện pháp này, mà chỉ được quy định cùng các biện pháp khác tại Điều 9 luật ban hành VBQPPL 2008.
Biện pháp đình chỉ thi hành:
a) Khái niệm:
Đình chỉ thi hành VBPL là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định dừng thực hiện, làm mất hiệu lực của VBPL một cách tạm thời.
b) Trường hợp áp dụng và đối tượng áp dụng:
Đình chỉ thi hành được áp dụng đối với VBPL trái pháp luật. Hình thức đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp nội dung trái pháp luật đó nếu chưa được sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ kịp thời và nếu tiếp tục thực hiện thì có thể gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
c) Hậu quả pháp lí của biện pháp đình chỉ thi hành:
Khác với các hình thức xử lý khác, đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản không làm chấm dứt hiệu lực pháp lý của văn bản bị đình chỉ, mà chỉ làm ngưng hiệu lực pháp lý của nó cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan có thẩm quyền. Đây như là một “biện pháp khẩn cấp tạm thời” để làm ngưng hiệu lực pháp lý của các quy định trái pháp luật.
d) Nhận xét:
Như vậy, biện pháp đình chỉ thi hành chỉ làm dừng hiệu lực pháp lý của VBPL khiếm khuyết cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước. Điều đó có nghĩa nếu sau đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ hoặc bãi bỏ thì VBPL đó hết hiệu lực nhưng nếu không thì văn bản vẫn tiếp tục có hiệu lực.
Biện pháp tạm đình chỉ thi hành:
Khái niệm:
Tạm đình chỉ thi hành là biện pháp dừng thực hiện, làm mất hiệu lực của VBPL được áp dụng trong một số trường hợp nhất định.
b) Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng:
Các trường hợp áp dụng biện pháp tạm đình chỉ bao gồm:
- Thứ nhất: Chủ thể không có thẩm quyền xử lí VBADPL nhưng có cơ sở cho rằng VBPL đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật nên quyết định tạm dừng thi hành để chờ cấp có thẩm quyền xử lí.
- Thứ hai: khi có cơ sở cho rằng việc thi hành VBPL có thể gây cản trở hoạt động công quyền thì chủ thể có thẩm quyền quyết định việc tạm dừng thi hành văn bản trong thời gian nhất định để hoạt động công quyền được diễn ra thuận lợi.
c) Hậu quả pháp lí:
VBPL bị tạm đình chỉ làm ngưng hiệu lực pháp lý của nó cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan, người có thẩm quyền.
VBPL bị tạm đình chỉ theo trường hợp thứ nhất hết hiệu lực khi cấp có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ, bãi bỏ; tiếp thục có hiệu lực khi cấp trên có thẩm quyền tuyên bố không bãi bỏ, hủy bỏ văn bản đó.
VBPL bị tạm đình chỉ theo trường hợp hai sẽ tiếp tục có hiệu lực khi người ra quyết định tạm đình chỉ ra văn bản bãi bỏ việc tạm đình chỉ.
d) Nhận xét:
Theo quan điểm của cá nhân em thì biện pháp tạm đình chỉ thi hành chỉ là một phần của biện pháp đình chỉ thi hành vì vậy việc tách riêng hai biện pháp là không hợp lí, nên hợp nhất hai biện pháp này để việc áp dụng vào xử lí VBPL được thống nhất, thuận tiện và dễ dàng hơn
Biện pháp sửa đổi, bổ sung
a) Khái niệm:
Sửa đổi VBPL là việc ra văn bản để làm thay đổi một phần nội dung VBPL hiện hành trong khi vẫn giữ nghuyên những nội dung khác.
Bổ sung VBPL là việc ra văn bản để thêm vào nội dung VBPL những quy định mới trong khi vẫn giữ nguyên nội dung vốn có của VBPL đó.
b) Đối tượng và trường hợp áp dụng:
Sửa đổi bổ sung là biện pháp được áp dụng với các VBPL khi tính chất và mức độ khiếm khuyết của văn bản rất nhỏ.
Biện pháp sửa đổi được áp dụng với văn bản áp dụng pháp luật sau một thời gian thực hiện thì có một số quy định không còn phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên mới được ban hành hoặc không còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và cần phải có quy định khác thay các nội dung không còn phù hợp đó.
Biện pháp bổ sung được áp dụng trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có nội dung chưa đầy đủ, rõ ràng, chưa toàn diện... nên cần thiết phải có quy định thêm để cho việc quy định trong VBQPPL được rõ ràng, toàn diện hơn, hiệu quả thi hành cao hơn.
c) Hậu quả pháp lí:
Sau khi sửa đổi thì văn bản bị sửa đổi vẫn tiếp tục có hiệu lực, chỉ có những điều, khoản bị sửa đổi là hết hiệu lực và được thay bằng các quy định mới của văn bản sửa đổi.
Hình thức bổ sung không làm mất đi bất cứ quy định nào của VBPL, mà thêm vào một số quy định cho hoàn thiện hơn. Chính vì vậy bổ sung không làm mất hiệu lực của VBPL được bổ sung, nhưng nó làm phát sinh hiệu lực của phần bổ sung.
d) Nhận xét:
Biện pháp sửa đổi, bổ sung VBPL là một hình thức được áp dụng phổ biến, được sử dụng chủ yếu cho các VBPL có chứa các QPPL ở dạng điều khoản và có phạm vi tác động rộng. Tuy nhiên trong quy định của pháp luật, khái niệm “sửa đổi” và “bổ sung” thường hay đi liền với nhau, do đó cần phân biệt khi nào thì dùng khái niệm nào, khi nào có thể dùng cả 2 khái niệm. Hiện nay pháp luật đã quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 cho phép sử dụng một văn bản để sửa đổi, bổ sung nhiều VBPL khác nhau. Đây là một điểm mới rất hay, giúp cho việc sửa đổi, bổ sung VBPL đỡ mất thời gian hơn, giảm kinh phí và những thủ tục không cần thiết.
KẾT LUẬN
Công tác xử lý văn bản pháp luật đóng góp không nhỏ vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tuy nhiên hiện nay, việc thực hiện công tác này đang có một số thiếu sót. Trên đây là những phân tích và bình luận về các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết. Hi vọng thời gian tới pháp luật sẽ quy định cụ thể và chi tiết hơn, để các biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết được thực hiện tốt hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật – Trường đại học Luật Hà Nội, Nxb.CAND, năm 2008.
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
Nghị định của Chính phủ số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010 quy định về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Bùi Thị Đào, “Về bãi bỏ, hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật”, Tạp chí Luật học, số 5/1998.
Bùi Thị Đào, Lê Vương Long, “Vấn đề xử lí văn bản pháp luật bất hợp lí”, Tạp chí Luật học, số 8/2008.
Đoàn Thị Tố Uyên, “Hoàn thiện quy định pháp luật về xử lí văn bản quy phạm pháp luật sai trái”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2008.