Đề tài Phân tích xu hướng chỉ số giá tiêu dùng từ sau đổi mới

1. Nêu vấn đề nghiên cứu Ở Việt Nam từ năm 1986, sau khi Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế đến nay, nền kinh tế đã từng bước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Vì vậy giá cả các mặt hàng đều có sự biến động, thay đổi rất nhanh chóng, ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế. Từ đó, nhóm chúng tôi chọn đề tài: “ Phân tích xu hướng chỉ số giá tiêu dùng từ sau đổi mới”. 2. Tính cấp thiết Giá cả hàng hoá dịch vụ luôn luôn biến động theo thời gian, tuy nhiên nếu như giá cả thay đổi quá nhanh chóng nó có thể là 1 cú sốc đối với nền kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ số cơ bản đo lường giá cả hàng hoá dịch vụ và cho biết liệu nền kinh tế có bị lạm phát hoặc giảm phát hay không? Chỉ số giá cả thường rất được quan tâm theo dõi và nó đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa ra quyết định tài chính, các chính sách của nhà nước. Vậy để phần nào hiểu được sự phát triển nền kinh tế nước ta từ sau đổi mới chúng ta cần nghiên cứu làm rõ vấn đề này. 3. Mục tiêu nghiên cứu a) Mục tiêu chung Tìm hiểu xu hướng chỉ số giá tiêu dùng từ sau đổi mới và một số giải pháp của Chính phủ nhằm hạn chế lạm phát của Việt Nam. b) Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hóa cơ sở lí luận về chỉ số giá tiêu dùng. -Tìm hiểu bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới và sau đổi mới. -Phân tích xu hướng biến động chỉ số giá tiêu dùng từ sau đổi mới. -Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự biến động đó. -Một số giải pháp khắc phục của Chính phủ.

doc16 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2181 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích xu hướng chỉ số giá tiêu dùng từ sau đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: “ Phân tích xu hướng chỉ số giá tiêu dùng từ sau đổi mới” Nêu vấn đề nghiên cứu Ở Việt Nam từ năm 1986, sau khi Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế đến nay, nền kinh tế đã từng bước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Vì vậy giá cả các mặt hàng đều có sự biến động, thay đổi rất nhanh chóng, ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế. Từ đó, nhóm chúng tôi chọn đề tài: “ Phân tích xu hướng chỉ số giá tiêu dùng từ sau đổi mới”. Tính cấp thiết Giá cả hàng hoá dịch vụ luôn luôn biến động theo thời gian, tuy nhiên nếu như giá cả thay đổi quá nhanh chóng nó có thể là 1 cú sốc đối với nền kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ số cơ bản đo lường giá cả hàng hoá dịch vụ và cho biết liệu nền kinh tế có bị lạm phát hoặc giảm phát hay không? Chỉ số giá cả thường rất được quan tâm theo dõi và nó đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa ra quyết định tài chính, các chính sách của nhà nước. Vậy để phần nào hiểu được sự phát triển nền kinh tế nước ta từ sau đổi mới chúng ta cần nghiên cứu làm rõ vấn đề này. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu chung Tìm hiểu xu hướng chỉ số giá tiêu dùng từ sau đổi mới và một số giải pháp của Chính phủ nhằm hạn chế lạm phát của Việt Nam. Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hóa cơ sở lí luận về chỉ số giá tiêu dùng. -Tìm hiểu bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới và sau đổi mới. -Phân tích xu hướng biến động chỉ số giá tiêu dùng từ sau đổi mới. -Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự biến động đó. -Một số giải pháp khắc phục của Chính phủ. 4. Tóm tắt một số nghiên cứu trước đây “Diễn biến chỉ số giá hàng tiêu dùng từ 1976 đến 2008” (Võ Hùng Dũng – Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh Cần Thơ). - Chỉ số giá tiêu dùng từ 1976 đến 2008. + Chỉ số giá tiêu dùng từ 1976 đến 1992 và lạm phát năm 1986 Bối cảnh kinh tế trước lạm phát năm 1986 Lạm phát bùng nổ Nguyên nhân Tác động từ bên ngoài + Chỉ số giá hàng tiêu dùng từ 1993 đến 2008 Từ lạm phát thấp đến giảm phát Giảm phát và suy thoái Lạm phát trở lại Nguyên nhân - Tiền tệ, tỷ giá và lãi suất trong mối quan hệ với lạm phát. + Tiền tệ, tín dụng + Tỉ giá + Lãi suất - Tác động của giá lương thực đến chỉ số giá tiêu dùng. + Lương thực và thực phẩm + Ảnh hưởng của xuất khẩu lúa gạo + Giá lương thực và thực phẩm, giá cánh kéo - Một số tóm tắt và nhận xét 5. Câu hỏi nghiên cứu - Chỉ số giá tiêu dùng ( CPI) là gì? Công thức tính chỉ số giá tiêu dùng? - Các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số giá tiêu dùng là gì? - Xu hướng chỉ số giá tiêu dùng từ sau đổi mới như thế nào từ sau đổi mới? Tại sao? - Sự biến động của chỉ số giá tiêu dùng tác động đến nền kinh tế Việt Nam như thế nào? - Chính phủ đã có những biện pháp khắc phục gì? 6. Giả thuyết và giả thiết nghiên cứu 6.1 Giả thuyết nghiên cứu Ý tưởng nghiên cứu  Câu hỏi  Giả thuyết   Xu hướng biến động CPI từ sau đổi mới  Chỉ số giá tiêu dùng có luôn biến động không? Chỉ số giá tiêu dùng thường tăng cao vào thời điểm nào? Khi chỉ số gía tiêu dùng tăng hoặc giảm đột ngột thì ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế?  Chỉ số giá tiêu dùng luôn biến động thất thường. Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao thường xảy ra vào các tháng đầu năm và cuối năm. Khi chỉ số tiêu dùng tăng đột ngột => lạm phát cao => khủng hoảng kinh tế. Khi chỉ số tiêu dùng âm => giảm phát => nền kinh tế suy thoái.   6.2 Giả thiết nghiên cứu Ý tưởng nghiên cứu  Câu hỏi  Giả thiết   Xu hướng biến động chỉ số giá tiêu dùng từ sau đổi mới  Chỉ số giá tiêu dùng có liên hệ gì với lạm phát? CPI đo lường?  Chỉ số giá tiêu dùng là một trong những chỉ tiêu đánh giá lạm phát của nền kinh tế. CPI là một công cụ đo lường sự thay đổi của giá do người tiêu dùng chi trả theo thời gian cho các hàng hoá trong rổ hàng hoá và dịch vụ.   b) Giả thuyết nghiên cứu - Chỉ sổ giá tiêu dùng luôn biến động thất thường. - Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao thường xảy ra vào các tháng đầu năm và cuối năm. 7. Khung phân tích  8. Các nội dung nghiên cứu chính sẽ thực hiện * Cơ sở lý luận - Khái niệm chỉ số giá tiêu dùng. - Cách tính chỉ số giá tiêu dùng. - Các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số giá tiêu dùng. * Cơ sở thực tiễn - Diến biến chỉ số giá tiêu dùng từ 1986 đến nay + Từ 1986 đến 1992 + Từ 1993 đến nay - Nguyên nhân - Giải pháp 9. Một số ý tưởng về phương pháp nghiên cứu chính sẽ tiến hành - Phương pháp mô hình kinh tế lượng - Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp - Phương pháp thống kê kinh tế - Phương pháp so sánh - Phương pháp thảo luận nhóm 11. Kết quả dự kiến của nghiên cứu. Đóng góp của nghiên cứu 11.1 Kết quả dự kiến * Kết quả về lý thuyết - Hiểu chỉ số giá tiêu dùng là gì. - Biết công thức tính chỉ số giá tiêu dùng. - Các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số giá tiêu dùng. * Kết quả về thực tiễn - Nắm được sự biến động của chỉ số giá tiêu dùng từ sau đổi mới. - Biết được nguyên nhân dẫn đến biến động trên. - Một số biện pháp Chính phủ đưa ra để kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng là gì. 11.2 Đóng góp của nghiên cứu - Hoàn thiện bức tranh tổng thể về diễn biến chỉ số giá tiêu dùng từ sau đổi mới - Xây dựng được kế hoạch thu thập số liệu giá cả các mặt hàng. - Giúp các nhà kinh doanh có cách nhìn đúng đắn về chỉ số giá tiêu dùng. - Giúp người tiêu dùng có kế hoạch chi tiêu phù hợp. 12. Tài liệu tham khảo chính Diễn biến chỉ số giá hàng tiêu dùng từ 1976 đến 2008( Võ Hùng Dũng – Giám đốc VCCI Cần Thơ). Nguyễn Văn Hùng (2009), “Bài giảng môn Phương pháp nghiên cứu kinh tế” 13. Kế hoạch nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu từ 22/02/2010 đến 10/05/2010 STT  Nội dung chính  Thời gian  Hoạt động  Ghi chú   1  Xác định vấn đề nghiên cứu, tên đề tài nghiên cứu  22/02/10 – 27/02/10  Tập trung nhóm, họp nhóm thảo luận    2  Thu thập tham khảo các bài nghiên cứu trước đây  28/02/10 – 04/03/10  Tìm đọc các nghiên cứu trước đây  Cập nhật cả thông tin mới nhất   3  Viết đề cương sơ bộ  05/03/10 – 12/03/10  Xác định mục tiêu nghiên cứu, lập đề cương    4  Nghiên cứu, phân tích đề tài  13/03/10 – 20/03/10  Thu thập các số liệu, thông tin về chỉ số giá tiêu dùng    5  Tổng hợp, xử lý thông tin, số liệu  21/03/10 – 03/05/10  Sử dụng các phương pháp nghiên cứu để xử lý số liệu, thông tin (họp nhóm)    6  Viết báo cáo hoàn chỉnh  04/05/10 – 10/05/10  Thảo luận, đóng góp ý kiến, viết báo cáo    7  Chỉnh sửa, chuẩn bị báo cáo  11/05/10 – 15/05/10  Hệ thống lại kết quả nghiên cứu, báo cáo thử, in bài  Bổ sung, chỉnh sửa nếu cần   8  Báo cáo  18/05/10  Báo cáo    Khái niệm chỉ số giá tiêu dùng ( CPI) Chỉ số giá tiêu dùng (hay được viết tắt là CPI, từ các chữ tiếng Anh Consumer Price Index) là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số này chỉ dựa vào một giỏ hàng hóa đại diện cho toàn bộ hàng tiêu dùng. Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá và sự thay đổi của mức giá chính là lạm phát (một chỉ tiêu khác để phản ánh mức giá chung là Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm trong nước hay Chỉ số điều chỉnh GDP). Cách tính chỉ số giá tiêu dùng Để tính toán chỉ số giá tiêu dùng người ta tính số bình quân gia quyền theo công thức Laspeyres của giá cả của kỳ báo cáo (kỳ t) so với kỳ cơ sở. Để làm được điều đó phải tiến hành như sau: 1. Cố định giỏ hàng hoá: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua. 2. Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hoá tại mỗi thời điểm. 3. Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hoá bằng cách dùng số lượng nhân với giá cả của từng loại hàng hoá rồi cộng lại. 4. Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu dùng bằng công thức sau: CPIt = 100 x  Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t    Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ cơ sở   Thời kỳ gốc sẽ được thay đổi trong vòng 5 đến 7 năm tùy ở từng nước. Nếu muốn tính Chỉ số lạm phát của một thời kỳ, người ta áp dụng công thức sau: Chỉ số lạm phát thời kỳ T = (CPI thời kỳ T - CPI thời kỳ T-1) : CPI thời kỳ T-1 Trên thực tế người ta có thể xác định quyền số trong tính toán chỉ số giá tiêu dùng bằng cách điều tra để tính toán tỷ trọng chi tiêu của từng nhóm hàng hoá, dịch vụ so với tổng giá trị chi tiêu. Sau đó quyền số này được dùng để tính chỉ số giá tiêu dùng cho các thời kỳ sau. CPI thường được tính hàng tháng và hàng năm. CPI còn được tính toán cho từng nhóm hàng hóa hoặc một số nhóm hàng hóa tùy theo mục đích sử dụng. • Bối cảnh kinh tế trước lạm phát năm 86 Bối cảnh nền kinh tế từ 1976 đến 1985 là giai đoạn hết sức phức tạp và đầy biến động. Nền kinh tế vốn bị tổn thương nặng bởi chiến tranh, khi hợp nhất đã không chú ý đầy đủ những khác biệt cơ chế nên nhiều khó khăn mới nảy sinh. Phát sinh các chiến dịch X1, X2, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo nông nghiệp làm rối loạn sản xuất, lưu thông. Cũng những năm này đất nước lại có 2 cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam rồi đến biên giới phía Bắc, trận lũ lụt lịch sử ở ĐBSCL. Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng từ 1986 đến 1992 Năm 1986 nền kinh tế đất nước bước vào thời kỳ lạm phát phi mã với tỉ lệ tăng đến 3 chữ số và kéo dài trong 3 năm 86, 87, 88 với tỉ lệ 775%, 223% và 394%. Năm 1989 chỉ số tăng giá tuy có giảm xuống còn 35% nhưng 2 năm sau đó lại tăng lên với tỉ lệ 67% năm. Chỉ đến năm 1992 lạm phát mới kiềm lại được ở mức 17,5% và năm 1993 còn 5,2%. Năm 1992, mặc dù lạm phát vẫn còn cao, nhưng so với nhiều năm trước đó thì 17,5% là con số rất thấp, có thể coi đó là năm chấm dứt giai đoạn lạm phát kéo dài 7 năm tính từ năm 1985, năm đổi tiền đẩy lạm phát lên đỉnh cao. - Nguyên nhân Những nguyên nhân chính đưa đến lạm phát cuối năm 80 là do sản xuất nông nghiệp suy yếu, giá lương thực và thực phẩm tăng vọt; thâm hụt ngân sách, thâm hụt thương mại cao, phát hành tiền cho nhu cầu chi tiêu. Nhưng nguyên nhân của các nguyên nhân là từ một các chính sách sai lầm thời đó kể cả việcchậm trễ trong việc ra các quyết sách chống lạm phát. Lạm phát đã xuất hiện nhiều năm trước 1986, nhưng vào lúc đó không thừa nhận có lạm phát trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Một vấn đề khác, cũng có thể là nguyên nhân đưa đến đánh giá thấp ảnh hưởng và tác động của lạm phát bởi nền kinh tế ở miền Bắc chưa trải qua những năm tháng bị lạm phát hoành hành như ở miền Nam, chưa có kinh nghiệm gì trong việc đối phó với lạm phát. Cách tổ chức phân phối hàng hóa với 2 hệ thống khác biệt: hệ thống tem phiếu với các cửa hàng quốc doanh và hàng hóa trên thị trường tự do. Thị trường tự do là cho mọi người dân còn hệ thống tem phiếu và các cửa hàng mậu dịch quốc doanh chuyên phân phối hàng hóa cho cán bộ. Cấp bậc, chức vụ càng cao thì được mua nhiều hàng với giá phân phối rẻ, nên lãnh đạo càng ở cấp cao càng khó cảm nhận được khó khăn do vật giá gia tăng. - Giải pháp Biện pháp được đưa ra vào tháng 9- 1985 là đổi tiền Đổi tiền năm 1985 xuất hiện trong bối cảnh lạm phát đã rất cao, điều mà ngày hôm nay là rất khó hiểu, nhưng lúc đó có thể cho rằng với đồng tiền đã bị mất giá, chỉ cần nâng mệnh giá đồng bạc Việt Nam bằng cách đổi tiền thì có thể chấm dứt đà tăng giá, như vậy lạm phát sẽ không còn. Kết quả sau đổi tiền CPI năm 1985 tăng 92 %, năm 1986 tăng 775%, lạm phát phi mã với tỉ lệ tăng 3 chữ số kéo dài thêm 2 năm sau đó với tỉ lệ tăng 223% rồi 394%. Đến năm 1989, sau nhiều biện pháp tập trung cho sản xuất lương thực, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, nhập khẩu vàng, điều chỉnh cơ chế tỉ giá, lãi suất tiết kiệm, hạn chế lưu thông tiền mặt thì lạm phát mới bước đầu được kiềm chế. Chỉ số giá tiêu dùng từ 1993 đến nay • Từ lạm phát thấp đến giảm phát Đây là khoảng thời gian dài lạm phát từ chỗ bị khống chế trong các năm đầu đến giảm trong các năm cuối thập niên 90. Ban đầu là tình trạng giảm chỉ số giá trong một số tháng trong năm (các năm 93, 95) đến giảm liên tục nhiều tháng trong năm (97, 99, 2000). Vào nửa giai đoạn đầu thập niên 90 (từ 92-96), tăng trưởng của nền kinh tế rất cao (bình quân gần 9% năm), lạm phát thấp. Năm 1993 CPI chỉ tăng 5,2% và xuất hiện chỉ số giá âm 6 lần trong năm (tháng 3, 4, tháng 6, 7 và tháng 9, 10), tốc độ tăng GDP năm này là 8,1%. Các năm cuối của giai đoạn trên (97-2001) lạm phát thấp, tăng trưởng kinh tế cũng thấp. Năm 1997, lạm phát ở mức 3,6% là tỉ lệ thấp nhất từ sau năm 1975, tăng trưởng kinh tế chậm hơn so năm trước (8,1%), cũng từ năm này tăng trưởng kinh tế bị chậm lại kéo dài cho đến năm 2001. • Giảm phát và suy thoái Sau 2 năm chỉ số giá thấp (96 và 97), năm 98 CPI tăng lên 9,2% nhưng tăng trưởng kinh tế chỉ còn 5,8%. Dấu hiệu của giảm phát và suy thoái càng lúc càng rõ ràng hơn. Trong 8 tháng, từ tháng 3 đến tháng 10 năm 99 CPI đều âm và kết cục chỉ số giá cả năm tăng 0,1%, tăng trưởng kinh tế chỉ còn 4,8% thấp nhất kể từ 1990. Năm 2000, CPI âm (-0,6%), năm 2001 chỉ tăng 0,8%. Giảm phát đã gây những tác động xấu đến tình hình phát triển kinh tế kéo dài từ 1998 cho đến 2001. Đó cũng là lần đầu tiên trong lịch sử kinh tế của Việt Nam nhận biết được giảm phát với những tác động và ảnh hưởng của nó. Lạm phát trở lại Năm 2002 CPI tăng 4% chấm dứt giai đoạn giảm phát. Năm 2003 chỉ số tăng giá vẫn thấp (3%) nhưng năm 2004 đã có dấu hiệu thay đổi. Ngay từ các tháng đầu năm CPI đã tăng khá mạnh: tháng 1 tăng 1,1% sang tháng 2 tăng đến 3%, các tháng còn lại đều tăng. Năm 2005, tiếp tục đà tăng của năm 2004, ngay ở 2 tháng đầu năm mức tăng lần lượt là 1,1 rồi 2,5%, tất cả các tháng còn lại đều tăng. Với mức tăng 9,5% năm 2004 và 8,4% trong năm 2005 đã gây nên một số lo ngại lạm phát trở lại. Năm 2007, tín hiệu lạm phát đã được phát ra ngay từ 2 tháng đầu năm với mức tăng 1,2% và 2,2%, tháng 3 giảm nhẹ một chút rồi sau đó nóng dần lên đặc biệt là ở 2 tháng cuối năm với mức tăng 1,2% rồi 2,9% là mức tăng cao nhất của một tháng kể từ năm 1992. Lạm phát đã trở lại sau 15 năm, kể từ 1992. • Lạm phát và giảm phát trong cùng một năm 2008 Đầu năm 2008 giá cả tiếp tục tăng vọt, CPI tháng 3 đã tăng đến 9,2% so tháng 12 năm 2007. Tháng 4 CPI cũng duy trì ở mức rất cao, qua tháng 5 với cú sốc về giá lương thực lại đẩy CPI tăng lên đến con số chóng mặt là 3,91%. Vào lúc đó giá xăng dầu trong nước vẫn chưa tăng mặc dù giá quốc tế đã tăng trên 140 USD/ thùng, tâm lý lo sợ lạm phát và khủng hoảng kinh tế đã bao trùm đẩy giá USD và các ngoại tệ khác tăng lên. Giá USD trên thị trường có lúc gần đến 20.000 VNĐ ăn một USD. Đến tháng 6, lạm phát đến 18,4%, hầu hết các dự báo đều chỉ đến con số 30 đến trên 30% vào cuối năm. Đến tháng 7 giá cả bắt đầu hạ nhiệt, tỉ lệ tăng CPI lần đầu trong nhiều tháng dưới mức 2%. Việc điều chỉnh giá xăng vào ngày 21/7 với mức tăng 33% đã đẩy chỉ số giá tăng trở lại trong tháng 8 với mức tăng 1,6%. Vào lúc Việt Nam điều chỉnh giá xăng dầu trong nước thì giá dầu thế giới từ đỉnh cao 147USD/ thùng bắt đầu hạ nhiệt, giá lương thực trên thị trường quốc tế cũng giảm, một số nguyên liệu cơ bản như sắt thép, xi măng, nhựa cũng giảm đã tác động đến giá trong nước. Tháng 9, CPI chỉ tăng 0,18% và tính đến tháng 9 lạm phát ở mức 21,87%, các dự báo mới về lạm phát cả năm dao động trong khoảng 25%. Vào tháng 11, CPI âm tháng thứ 2 thì các lo lắng về lạm phát lắng đi, thay vào đó là nỗi lo giảm phát và suy thoái kinh tế. Ngân hàng Nhà nước bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ: giảm lãi suất cơ bản và tỉ lệ dự trữ bắt buộc với bước đi hết sức thận trọng. Các dự báo mới về CPI cả năm ở mức 21% và Chính phủ đưa ra mục tiêu năm 2009 kiềm chế lạm phát ở mức dưới 15% và tăng trưởng kinh tế 6,5%. Đến tháng 12, CPI tiếp tục âm 0,68% đã đưa mức lạm phát cuối năm dưới mức 20%. Nếu tách năm 2008 ra thành 2 nửa thì 6 tháng đầu năm lạm phát cao, bình quân mỗi tháng tăng 2,2%. Sáu tháng cuối năm lạm phát rất thấp chuyển sang giảm phát bình quân mỗi tháng tăng 0,2% trong đó 3 tháng cuối lạm phát âm. Giảm phát kèm theo suy thoái thể hiện khá rõ trong các tháng cuối năm 2008. Quí IV, tăng trưởng GDP chỉ còn khỏang5,4%, thấp nhất so các quí trong năm.  Nguồn: Tổng cục Thống kê Nhìn vào đồ thị diễn biến CPI ở trên có thể nhận thấy sau khi lạm phát lên đến mức đỉnh điểm vào năm 2008 và suy giảm vào năm 2009 do tác động của suy thoái kinh tế thế giới, thì ngay cuối năm 2009, chỉ số CPI đã bắt đầu gia tăng trở lại; tới đầu năm 2010, xu thế này vẫn tiếp tục và ngày càng rõ nét. Tuy nhiên, cũng phải tính đến tính quy luật của lạm phát trong năm. Quan sát diễn biến CPI trong đồ thị bên dưới có thể thấy, nếu không có gì đột biến, những tháng đầu năm, CPI thường tăng nhưng sau đó sẽ ổn định và giảm dần, rồi lại nhích lên trong những tháng cuối năm. Nói như vậy không có nghĩa là nguy cơ lạm phát cho những tháng tiếp theo của năm 2010 là không đáng lo ngại khi những yếu tố gia tăng lạm phát đang hiển hiện. Năm 2008 là một ví dụ cho thấy những diễn biến bất thường của chỉ số này và rất có thể một kịch bản tương tự sẽ xảy ra nếu không có các biện pháp kiểm soát tốt lạm phát.  Nguồn: Tổng cục Thống kê • Nguyên nhân Giảm phát và suy thoái trong các năm 1998-2001 có phần quan trọng do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế châu Á. Lạm phát rồi giảm phát và suy thoái kinh tế năm 2008 (và dự báo 2009) cũng có nguyên nhân do khủng hoảng kinh tế toàn cầu. - Giải pháp Một là, chuyển nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để năng động hóa và đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Hai là, kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường. Ba là, dân chủ hóa đời sống xã hội theo phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", đồng thời xây dựng một nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bốn là, mở cửa tăng cường giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới theo tinh thần: "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam và các yếu tố tác động - Phương pháp tiếp cận định lượng I. Đặt vấn đề Lạm phát phi mã dường như đã khá xa đối với nền kinh tế Việt Nam kể từ khi lạm phát được kìm chế thành công đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Từ 1994 đến 2003, mức lạm phát hàng năm dao động trong khoảng 0,8% đến 17%. Chỉ tiêu lạm phát do Quốc hội đưa ra được thực hiện mà không gặp mấy khó khăn đáng kể. Thậm chí, nền kinh tế còn phải cố gắng thoát khỏi tình trạng giảm phát sau cuộc khủng hoảng Tài chính - tiền tệ Châu Á. Tuy nhiên, mối đe doạ lạm phát lại quay trở lại vào năm 2004 khi chỉ tiêu lạm phát do Quốc hội đề ra không thực hiện được, lần đầu tiên sau 10 năm. Mức lạm phát đã tăng lên 9,5% trong khi chỉ tiêu của Quốc hội đưa ra chỉ có 6% và rất nhiều biện pháp kìm chế lạm phát đã được sử dụng. Dù nguyên nhân chủ yếu của đợt lạm phát này được cho là xuất phát cú sốc từ bên cung, do dịch cúm gia cầm gây ra song hiện tượng này làm nảy sinh một yêu cầu phải có một phương pháp định lượng về đánh giá hiệu lực của các công cụ chính sách đối với lạm phát. Nghiên cứu gần đây nhất trong lĩnh vực này do Shanaka J. Peiris (2003) tiến hành, tác giả sử dụng phương pháp hệ thống vectơ tự tương quan (VAR) với độ dài các biến trễ là 3 để phân tích những yếu tố chủ yếu tác động đến mức giá tiêu dùng ở Việt Nam. Số liệu được sử dụng có tần số là tháng với thời gian từ 1995 đến 2002. Kết quả là tỷ lệ tác động của tỷ giá lên giá tiêu dùng là thấp trong khi sự tác động của giá hàng nhập khẩu đến giá tiêu dùng xấp xỉ 1: 1. Điều này có thể được lý giải qua tỷ trọng thấp của những mặt hàng nhập khẩu trong rổ hàng hoá tiêu dùng và tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Ngoài ra, vai trò của mức cung ứng tiền tệ đối với giá tiêu dùng không lớn, CPI có độ ỳ không giúp íc
Luận văn liên quan