Rừng là tài nguyên vô cùng quí giá, rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xh mà nó còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, rừng tham gia vào điều hòa khí hậu, đảm bảo chu chuyển oxy và các nguyên tố khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và màu mỡ của đất Tóm lại rừng có vai trò hết sức quan trọng đối với các sinh vật và hoạt động sống của con người và cung cấp cho con người nhiều giá trị
Nhưng ngày nay, việc khai thác và sử dụng tài nguyên rừng bất hợp lý đang làm cho diện tích rừng ngày một thu hẹp,làm phá huỷ hệ sinh thái .Và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc biến đổi khí hậu trong thời gian qua.Tình trạng đó đã tạo ra hàng loạt các tiêu cực và thách thức sự phát triển kinh tế, xh và môi trường như gây lũ lụt, hạn hán gây khó khăn trong việc cung ứng lâm sản, làm giảm diện tích đất trồng khiến tình trạng nghèo đói và thất nghiệp ở nhiều khu vực càng đáng lo ngại hơn, đặc biệt làm suy thoái rừng làm phá vỡ các hệ sinh thái quan trọng khác. Để bảo vệ cuộc sống của chúng ta hãy cứu lấy rừng!
27 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 13650 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích ý nghĩa, vai trò, chức năng, nguyên nhân và hậu quả gây ô nhiễm tài nguyên rừng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN
KĨ THUẬT MÔI TRƯỜNG
Nhóm 5
Đề tài: Nêu và phân tích ý nghĩa, vai trò, chức năng, nguyên nhân và hậu quả gây ô nhiễm tài nguyên rừng
GVHD Người thực hiện
Phạm Thị Làn Bùi Thị Hương
Ngô Văn Tuấn
Ngô Trường Ninh
Nguyễn Văn Long
Lê Đức Thọ
Đặt vấn đề
Rừng là tài nguyên vô cùng quí giá, rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xh mà nó còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, rừng tham gia vào điều hòa khí hậu, đảm bảo chu chuyển oxy và các nguyên tố khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và màu mỡ của đất…Tóm lại rừng có vai trò hết sức quan trọng đối với các sinh vật và hoạt động sống của con người và cung cấp cho con người nhiều giá trị…
Nhưng ngày nay, việc khai thác và sử dụng tài nguyên rừng bất hợp lý đang làm cho diện tích rừng ngày một thu hẹp,làm phá huỷ hệ sinh thái .Và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc biến đổi khí hậu trong thời gian qua.Tình trạng đó đã tạo ra hàng loạt các tiêu cực và thách thức sự phát triển kinh tế, xh và môi trường như gây lũ lụt, hạn hán gây khó khăn trong việc cung ứng lâm sản, làm giảm diện tích đất trồng khiến tình trạng nghèo đói và thất nghiệp ở nhiều khu vực càng đáng lo ngại hơn, đặc biệt làm suy thoái rừng làm phá vỡ các hệ sinh thái quan trọng khác. Để bảo vệ cuộc sống của chúng ta hãy cứu lấy rừng!
II. Một số hiểu biết về rừng.
II.1. khái niệm
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về rừng, song định nghĩa chung nhất và phổ biến nhất được quy định theo luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 và theo M.E tcachenco, 1952 đó là.
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm thực vật, động vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0.1 trở lên.
Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lí, trong đó bao gồm tổng thể cây gỗ,cây cỏ, cây bụi,động vật và vi sinh vật. Trong quá trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau và với hoàn cảnh bên ngoài
II.2. Phân loại rừng.
Phân loại rừng là một công tác rất quan trọng trong quản lý tài nguyên rừng của mỗi quốc gia, và tại Việt Nam công tác phân loại rừng gắn liền với lịch sử phát triển xử dụng rừng từ xa xưa.
1, Phân loại theo thảm thực vật rừng.
a. rừng lá kim( taiga).
Taiga hay rừng taiga là một quần xã sinh vật với đặc trưng nổi bật là các rừng lá kim. Rừng có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất thấp hơn vùng nhiệt đới( nhóm cây đặc trưng là sim lam, vân sam, thong và cây seqnota khổng lồ). Taiga bao phủ hầu hết phần trên đại lục của ALaska, Canada, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy và Nga (đặc biệt là Siberi), bắc Kazakhstan và khu vực Hokkaido của Nhật Bản. Rừng taiga là quần xã sinh vật đất liền lớn nhất trên thế giới.
b. Rừng mưa nhiệt đới.
Rừng nhiệt đới hay rừng mưa nhiệt đới là những quần hệ phụ của rừng mưa phân bố ở vùng chí tuyến nóng ẩm, là khu vực rừng có diện tích lớn nhất hiện nay và có tác dụng lớn nhất trong duy trì môi trường sinh tồn của loài người. Nó phân bố chủ yếu ở các khu vực châu Á, châu Úc, châu Phi, Nam Mỹ, Trung Mỹ và các quần đảo trên Thái Bình Dương thuộc khu vực chí tuyến.
Rừng nhiệt đới có giá trị kinh tế cao phục vụ đời sống con người do có khối lượng sinh học cao phong phú về số lượng cũng như chất lượng nên đang bị con người khai thác triệt để. Diện tích chỉ còn khoảng 50% so với trước và chỉ còn chiếm 8% so với lục địa
c. Rừng lá rụng ôn đới
Giáp với nhiệt đới và phân bố chủ yếu ở vùng thấp, chủ yếu ở Châu Âu, Đông Bắc Mĩ, Nam Mỹ, một phần ở Trung Quốc, Nhật Bản, Oxtraylia…Nó thường rụng lá vào mùa thu, chiếm phần lớn diện tích canh tác của những nước này, khoảng 35% diện tích.
2. Phân loại dựa vào tính chất sử dụng.
a. Rừng phòng hộ.
Rừng được sử dụng cho mục đích bảo vệ nguồn nước, bảo vệ nguồn nước chống xói mòn, hạn chế thiên tai, điều hòa khí hậu và bảo vệ môi trường.
Nó được phân loại theo vị trí như sau:
+ Rừng phòng hộ đầu nguồn
+ Rừng phòng hộ chống cát bay
+ Rừng phòng hộ chắn sóng
b. Rừng đặc dụng.
Được sử dụng cho mục đích đặc biệt như bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái, bảo tồn nguồn gen động thực vật, phục vụ nghiên cứu khoa học…
Bao gồm các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu văn hóa lịch sử và môi trường
c. Rừng sản xuất.
Bao gồm các loại rừng dùng để sản xuất , kinh dọanh gỗ, đặc sản rừng, động vật rừng kết hợp với bảo vệ môi trường sinh thái
Rừng ngập mặn, các rặng san hô và cỏ biển còn nguyên vẹn có thể làm giảm nhẹ hoặc tiêu tan các đợt sóng thần cao khoảng 15m. Một nghiên cứu của Nhật Bản cho biết một rừng ngập mặn có chiều rộng 100m có thể giảm 50% chiều cao của song chiều và 50% năng lượng song
Vd: Trong đợt động đất và song thần ngày 26 thang 12 năm 2004 tại đảo Pulau Seemplu của Indonesia nằm gần tâm ngoài của trận động đất, chỉ có 100 người bị chết do những người dân trên đảo đã học được kinh nghiệm chạy lên vùng đất cao và những vùng có rừng ngập mặn vây quanh.
3. Phân loại rừng theo trữ lượng.
+ Rừng giàu:Trữ lượng rừng trên 150 m³/ha.
+ Rừng trung bình: Trữ lượng rừng nằm trong khoảng (100-150) m³/ha
+ Rừng nghèo: Trữ lượng rừng nằm trong khoảng (80-100) m³/ha
+ Rừng kiệt: Trữ lượng rừng thấp hơn 50 m³/ha
4. Phân loại rừng dựa vào tác động của con người
+ Rừng tự nhiên : là do thiên nhiên tạo ra
+ Rừng nhân tạo :là rừng được hình thành nên bởi con người
5. Phân loại dựa vào nguồn gốc
+ Rừng chồi
+ Rừng hạt
6. Phân loại rừng theo tuổi
+ Rừng non
+ Rừng sào
+ Rừng trung niên
+ Rừng già
II.3. Vai trò và chức năng của rừng.
Phá rừng là nguyên nhân cơ bản nhất gây ra nhiều tác hại cho Trái
Đất: như ô nhiễm môi trường, đất đai vị xói mòn, bão lụt, khô hạn, nước biển ngày càng dâng cao, nhiệt độ Trái Đất tăng dần, nhiều loài động thực vật bị tiêu diệt. Do đó con người phải có nhận thức đúng đắn về vai trò và tác dụng của rừng trong cuộc sống sản xuất, tích cực phát triển rừng, bảo vệ rừng.
Rừng là tài nguyên quý giá của mỗi quốc gia, là một bộ phận quan trọng của môi trường sống, có ảnh hướng rất lớn đến đời sống và hoạt động của xã hội
Rừng là một hệ sinh thái mà quần xã cây rừng giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ tương tác giữa sinh vật với môi trường. Rừng có vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống của con người cũng như môi trường: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa, tạo ra oxy, điều hòa nước, là nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm, bảo vệ và ngăn chặn gió bão, chống xói mòn đất, đảm bảo cho sự sống, bảo vệ sức khỏe của con người…
Vì vậy tỷ lệ đất có rừng che phủ của một quốc gia là một chỉ tiêu an ninh môi trường quan trọng (diện tích đất có rừng đảm bảo an toàn môi trường của một quốc gia tối ưu là 45% tổng diện tích). Sự quan hệ của rừng và cuộc sống đã trở thành một mối quan hệ hữu cơ. Không có một dân tộc, một quốc gia nào không biết rõ vai trò quan trọng của rừng trong cuộc sống. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều nơi con người đã không bảo vệ được rừng, còn chặt phá bừa bãi làm cho tài nguyên rừng khó được phục hồi và ngày càng bị cạn kiệt, nhiều nơi rừng không còn có thể tái sinh, đất trở thành đồi trọc, sa mạc, nước mưa tạo thành những dòng lũ rửa trôi chất dinh dưỡng, gây lũ lụt, sạt lở cho vùng đồng bằng gây thiệt hại nhiều về tài sản, tính mạng người dân. Vai trò của rừng trong việc bảo vệ môi trường đang trở thành vấn đề thời sự và lôi quấn sự quan tâm của toàn thế giới. Rừng giữ không khí trong lành: Do chức năng quang hợp của cây xanh, rừng là nhận CO2 và cung cấp O2. Đặc biệt ngày nay khi hiện tượng nóng dần lên của trái đất do hiệu ứng nhà kính,
Rừng điều tiết nước, phòng chống lũ lụt, xói mòn: Như ta đã biết rừng chứa một lượng nước dồi dào và rừng có vai trò điều hòa nguồn nước giảm dòng chảy bề mặt chuyển nó vào lượng nước ngấm xuống đất và vào tầng nước ngầm. Khắc phục được xói mòn đất, hạn chế lắng đọng lòng sông, lòng hồ, điều hòa được dòng chảy của các con sông, con suối (tăng lượng nước sông, nước suối vào mùa khô, giảm lượng nước song, suối vào mùa mưa).
Rừng bảo vệ độ phì nhiêu và bồi dưỡng tiềm năng của đất: ở vùng có đủ rừng thì dòng chảy bị chế ngự, ngăn chặn được nạn bào mòn, nhất là trên đồi núi dốc tác dụng ấy có hiệu quả lớn, nên lớp đất mặt không bị mỏng, mọi đặc tính lý hóa và vi sinh vật học của đất không bị phá hủy, độ phì nhiêu được duy trì. Rừng lại liên tục tạo chất hữu cơ. Điều này thể hiện ở qui luật phổ biến: rừng tốt tạo ra đất tốt, và đất tốt nuôi lại rừng tốt. Nếu rừng bị phá hủy, đất bị xói, quá trình đất mất mùn và thoái hóa dễ xảy ra rất nhanh chóng và mãnh liệt. Ước tính ở nơi rừng bị phá hoang trơ đất trống mỗi năm bị rửa trôi mất khoảng 10 tấn mùn/ ha. Đồng thời các quá trình feralitic, tích tụ sắt, nhôm, hình thành kết von, hóa đá ong, lại tăng cường lên, làm cho đất mất tính chất hóa lý, mất vi sinh vật, không giữ được nước, dễ bị khô hạn, thiếu chất dinh dưỡng, trở nên rất chua, kết cứng lại, đi đến cằn cỗi, trơ sỏi đá. Thể hiện một qui luật cũng khá phổ biến, đối lập hẳn hoi với qui luật trên, tức là rừng mất thì đất kiệt, và đất kiệt thì rừng cũng bị suy vong, chúng ta có thể tóm tắt như sau Điều đó đã giải thích vì sao trong việc phá rừng khai hoang trước đây ở miền đồi núi, dù đất đang rất tốt cũng chỉ được một thời gian ngắn là hư hỏng. Ngoài ra Rừng có vai trò rất lớn trong việc: Chống cát di động ven biển, che chở cho vùng đất bên trong nội địa, rừng bảo vệ đê biển, cải hóa vùng chua phèn, cung cấp gỗ, lâm sản. Rừng nơi cư trú của rất nhiều các loài động vật:. Động vật rừng nguồn cung cấp thực phẩm, dược liệu, nguồn gen quý, da lông, sừng thú là những mặt hàng xuất khẩu có giá trị… Như trên chúng ta đã biết rừng có vai trò rất lớn trong việc bảo vệ môi trường. Để môi trường sống của chúng ta không bị hủy hoại thì chúng ta phải bảo vệ và phát triển trồng rừng nhiều hơn nữa. Năm nay đã được Liên hợp quốc chọn là năm quốc tế về rừng với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển bền vững tất cả các loại rừng, phòng chống suy thoái và tàn phá rừng. Hưởng ứng năm quốc tế rừng, ngày môi trường thế giới đã được Liên hợp quốc chọn là: “Rừng: giá trị cuộc sống từ thiên nhiên” nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của rừng đối với cuộc sống và hệ sinh thái đồng thời đưa ra cảnh báo về tình trạng phá rừng và suy thoái rừng để mỗi chúng ta nhận biết được giá trị của Rừng và hãy có hành động cụ thể vì “Bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống”.
II.4. Tình hình khai thác và sử dụng tài nguyên rừng trên Thế giới và Việt Nam.
Hiện hơn một nửa tài nguyên rừng trên thế giới cũng như Việt Nam đang bị phá hủy nghiêm trọng và hơn 30% đang bị suy thoái.
4. 1.Thế giới
Ngày càng bị thu hẹp về diện tích và trữ lượng
Ðầu thế kỷ 20 diện tích rừng thế giới là 6 tỷ ha
1958: 4,4 tỷ ha
1973 :3,8 tỷ ha
1995 :2,3 tỷ ha.
- Tốc độ mất rừng hàng năm trên thế giới là 20 triệu ha
4.2.Việt Nam
- Trước chiến tranh, độ che phủ 60%.
- Năm 1943,độ che phủ 43%.
- Diện tích rừng bị suy giảm từ 43% xuống còn 28,2% (1943 - 1995).
- Diện tích rừng vào năm 1943: 14 triệu ha, 7.000 loài thực vật
- Năm 1976 còn 11 triệu ha và tỷ lệ che phủ 34%
- 1985 còn 9,3 triệu ha và tỷ lệ che phủ còn 30%
- 1995 còn 8 triệu ha và tỷ lệ che phủ còn 28%
- Ngày nay chỉ còn 7,8 triệu ha chiếm 23,6% diện tích
- 1975 đến 1995, diện tích rừng tự nhiên giảm 2,8 triệu ha. Đặc biệt ở Tây Nguyên (mất 440.000 ha), vùng Đông Nam Bộ (mất 308.000 ha), vùng Bắc Bộ (mất 242.500 ha).
Theo thống kê của Kiểm Lâm việt Nam tính đến ngày 31-12-2004 về mức độ phục hồi rừng từ năm 1995 đến 2004
Diện tích rừng tự nhiên Độ che phủ của rừng
10088288 ha
8253000 ha 36.7%
28%
1995 2004 1995 2004
Diện tích rừng tuy có tăng lên 37% (năm 2005), nhưng tỷ lệ rừng nguyên sinh ở mức khoảng 8% so với 50% của các nước trong khu vực.
Rừng ngập mặn ven biển giảm 80% diện tích.
II.5. Nguyên nhân gây ra hiện tượng suy thoái rừng.
Hiện nay một số bộ phận người dân chưa ý thức được ý nghĩa của rừng cũng như hiểu biết về rừng còn hạn chế.Điều đó phần nào đã tác động đến tài nguyên rừng và có rất nhiều nguyên nhân gây ra hiện tượng suy thoái rừng.
II.5.1. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất chính là sự mở rộng đất nông nghiệp, đất sản xuất, là mở rộng đất nông nghiệp bằng cách lấn sâu vào đất rừng, là nguyên nhân quan trọng nhất làm suy thoái tài nguyên rừng, suy thoái đa dạng sinh học. Phá rừng ngập mặn nuôi tôm là hậu quả làm suy thoái tài nguyên rừng , suy thoái đa dạng sinh học. Phá rừng ngập mặn để nuôi tôm là hậu quả làm suy thoái rừng. Rừng ngập mặn đóng một vai trò quan trọng đối với cuộc sống của hàng triệu người dân nghèo ven biển Việt Nam. Đặc biệt rừng ngập mặn ở Nam Bộ là những căn cứ kháng chiến vững chắc, nơi cất giấu vũ khí chuyển từ miền Bắc vào trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai. Do vị trí chuyển tiếp giữa môi trường biển và đất liền, nên hệ sinh thái rừng ngập mặn có tính đa dạng sinh học rất cao. Rừng ngập mặn là bức tường xanh vững chắc bảo vệ bờ biển, đê biển, hạn chế xói lở và các tác hại của bão lụt. Do chưa hiểu hết giá trị nhiều mặt của hệ sinh thái rừng ngập mặn, hoặc do những lợi ích kinh tế trước mắt, đặc biệt là nguồn lợi từ tôm nuôi xuất khẩu nên rừng ngập mặn Việt Nam đã bị suy thoái nghiêm trọng.
Ngoài ra con người còn chuyển đổi 1 số lượng lớn diện tích rừng để làm các khu du lịch,các khu nghỉ mát.VD Vừa qua uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng 20% diện tích trong tổng số 56 ha đất rừng phòng hộ để xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phục vụ di lịch.
II.5.2. Khai thác nguồn lâm sản quá mức.
Khai thác nguồn lâm sản đang là tình trạng đáng lo ngại hiện nay đối với tài nguyên rừng. Đây là nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến rừng bị suy thoái một cách nghiêm trọng làm cho sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên, sự phong phú về các loài sinh vật, độ che phủ và chất lượng rừng bị giảm sút gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho sinh vật và cây trồng trên toàn cầu. Khai thác rừng là hành động do chính con người tạo ra là phần lớn, vì rất nhiều mục đích khác nhau mà con người đã sử dụng dưới nhiều hình thức để tác động và tàn phá tài nguyên rừng. Với các mục đích khác nhau cho nên hoạt động khai thác nguồn lâm sản ở đây được chia thành 3 hoạt động: khai thác gỗ, khai thác củi, khai thác lâm sản ngoài gỗ.
•Khai thác gỗ. Trong giai đoạn từ năm 1986-1991 các lâm trường quốc doanh đã khai thác trung bình 3,5 triệu m3 gỗ mỗi năm ( khoảng 80.000 ha rừng), đó là chưa nói đến hậu quả của nạn khai thác trộm gỗ đã xảy ra khắp mọi nơi thậm chí cả trong các khu bảo tồn. Kết quả là rừng đã bị suy giảm nhanh chóng cả về diện tích lẫn chất lượng. Ngày nay, khi giá gỗ tăng cao, con người đã không ngừng tiến hành khai thác các loài nhóm gỗ trên theo các mục đích của mình. Họ khai phá để phục vụ cho các công trình xây dựng như làm giàn giáo, cốppha. Đối với loài gỗ bền chắc thì họ khai thác để xây dựng nhà ở, đối với loài gỗ quý hiếm thì họ khai thác nhằm để bán và xuất khẩu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xa xỉ của con người. Việc khai thác các loài gỗ quý hiếm để phục vụ mục đích kinh doanh xuất khẩu hiện nay đang là một nguồn lợi tức đáng kể cho quốc gia có trữ lượng lớn gỗ quý.
Với tốc độ đáng lo ngại, nạn khai thác rừng diễn ra chủ yếu ở các khu rừng nhiệt đới đang dần đưa đến nguy cơ mất rừng.
•Khai thác củi . Đối với các loại gỗ ngoài giá trị xây dựng công trình, xây dựng nhà ở, phục vụ kinh doanh xuất khẩu thì những loại thực vật kém giá trị khác lại được con người khai thác với mục đích là làm củi đốt. Ở Việt Nam 90% năng lượng dùng cho gia đình là các sản phẩm từ thực vật, hàng năm 1 lượng củi khoảng 21 triệu tấn được khai thác từ rừng để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt trong gia đình và lượng củi này nhiều hơn lượng gỗ xuất khẩu hàng năm. Với dân số ngày càng tăng như hiện nay, thì nhu cầu về lượng củi đốt như hiện nay cũng tăng theo. Đây là vấn đề đáng lo ngại cho việc tàn phá rừng tiếp tục tiếp diễn.
•Khai thác lâm sản ngoài gỗ. Rừng không chỉ có giá trị về gỗ mà còn có các giá trị lâm sản ngoài gỗ. Đây có thể xem là nguyên nhân tác động làm suy kiệt tài nguyên rừng nhanh nhất. Lâm sản ngoài gỗ bao gồm các loài động vật quý, động vật hoang dã… và các loại thực vật mà cho các sản phẩm ngoài gỗ như: song, mây, tre, nứa, lá các loại cây thuốc, dầu… Tất cả các loài trên có thể được sử dụng trong gia đình, bán và xuất khẩu cho nên tình trạng khai thác, buôn bán trái phép, xuất khẩu các loài động vật thực vật đang được diễn ra mạnh mẽ. Vì thiếu kế hoạch quản lý hợp lý, thiếu sự kiểm tra chặt chẽ trong việc khai thác tài nguyên sinh vật rừng mà ở nhiều vùng, một số loài động vật như tê giác, hổ, báo, voi, gấu, khỉ…, các loại cây như: pơmu, trầm hương, gõ đỏ…đã ngày càng trở nên rất hiếm. Giá trị xuất khẩu cao của các loài nói trên cùng với sự kém hiểu biết, hám lợi nhuận đã thúc đẩy con người tìm cách săn bắt chúng ở khắp mọi nơi. Cùng xuất phát từ sự nghèo đói mà người dân đổ xô vào rừng khai thác các nguồn lâm sản ngoài gỗ. Và đang còn rất nhiều hoạt động khai thác các loài động vật thực vật khác theo từng mục đích riêng ảnh hưởng tới môi trường. Các hoạt động khai phá trái phép này kéo dài âm ỉ, liên tục, tốc độ của sự phục hồi rừng không kịp với tốc độ phá rứng cho nên rừng đang bị suy thoái. Cần có các biện pháp tích cực để ngăn chặn và làm giảm các hoạt động trái phép này.
II.5.3. Cháy rừng
Cháy rừng cũng là một nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tài nguyên rừng một cách rất nhanh gây ảnh hưởng tới các hoạt động sống của sinh vật trên một diện tích rộng lớn và gây ra hậu quả xấu như xói mòn, lũ lụt, hạn hán đến cuộc sống con người. Ngày nay cháy rừng cũng do nhiều nguyên nhân gây ra, chúng ta có thể kể đến một số nguyên nhân như: hiện tượng elnino gây ra, do các hoạt động khai thác của con người như đốt lửa tìm mật ong, tìm mật gấu hay đốt hương tìm mộ liệt sĩ trong chiến tranh, do hoạt động đốt nưong làm rẫy của người dân tộc miền núi… những nguyên nhân này đều có thể khiến rừng bị cháy.
Ở Việt Nam với tổng diện tích rừng bị cháy là 2.304,07 ha; diện tích rừng tự nhiên 962.79 ha; diện tích rừng trồng là: 1.341,28 ha; số vụ được cứu là 440 vụ so với năm trước là 138 vụ cháy với tổng diện tích là 551.40 ha. Kết quả này cho thấy số vụ cháy rừng năm nay cao hơn và đang ở mức cảnh báo .Và hầu hết các diện tích rừng bị cháy đều nằm trong những vùng nhạy cảm như rừng đầu nguồn, đất dốc, vùng sinh thái đất ngập nước, rừng tràm, vùng rừng chống cát di động nên dễ gây lũ quét, xói lở, đất dễ bị khô hạn và thoái hoá. Cháy rừng sẽ nhanh chóng lan ra trên một diện tích rộng lớn và rất khó dập tắt cho nên thiệt hại cũng rất nghiêm trọng. Sự phục hồi và tái tạo lại rừng trong điều kiện này là rất chậm vì thế mà tài nguyên rừng đang cạn kiệt dần đi. Do vậy, đòi hỏi ý thức bảo vệ của người dân và dân và cần có sự quản lý chặt chẽ, sự quan tâm nguồn tài nguyên rừng của ngành kiểm lâm để hạn chế được sự suy giảm diện tích tài nguyên rừng.
II.5.4. Sức ép dân số.
Tăng dân số nhanh là một trong những nguyên nhân chính làm suy thoái đa dạng sinh học, suy thoái môi trường. Sự gia tăng dân số đòi hỏi tăng nhu cầu trong sinh hoạt và các nhu cầu thiết yếu khác, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Sự gia tăng về mật độ dân đã dẫn đến nạn phá rừng và sự suy thoái nghiêm trọng về các hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên. Hiện nay dân cư ngày càng tập trung ở các đô thị để dễ dàng trao đổi buôn bán… thoã mãn nhu cầu của họ, gây nên tình trạng mất cân đối giữa dân cư ở nông thôn và thành thị. Người dân ồ ạt ra thành thị kiếm sống dẫn đến tình trạng đô thị hoá, đòi hỏi nền kinh tế ở khu vực này phải phát triển tương đối để đáp ứng đầy đủ việc làm cho người dân. Và khi nhu cầu con người trong tất cả các lĩnh vực tăng cao, nhu cầu việc làm cũng tăng thì các nhà máy, xí nghiệp, các công ty, cơ sở chế biến… bắt đầu được hình thành. Nhưng diện tích đất thành thị chỉ chiếm một phần rất nhỏ cho nên tất cả các hoạt động tiêu dùng và sản xuất, khai thác chế biến không thể diễn ra ở đây, buộc họ phải chuyển đến một nơi cách xa thành thị, cách xa