Đề tài Pháp luật chào bán chứng khoán ở Việt Nam

Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán., đây là hoạt động đem lại những hiệu quả tích cực không những cho chủ thể chào bán mà còn cho cả nền kinh tế. Có hai phương thức chào bán chứng khoán là: chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ, trong đó chào bán chứng khoán ra công chúng sẽ cho phép doanh nghiệp huy động vốn một cách dễ dàng để đáp ứng nhu cầu đa dạng về vốn trong quá trình hoạt động. Chào bán chứng khoán là cách thức huy động vốn linh hoạt và mang lại hiệu quả cao. Do đó, việc tìm hiểu hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động này ở nước ta có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.

doc13 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2172 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Pháp luật chào bán chứng khoán ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán., đây là hoạt động đem lại những hiệu quả tích cực không những cho chủ thể chào bán mà còn cho cả nền kinh tế. Có hai phương thức chào bán chứng khoán là: chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ, trong đó chào bán chứng khoán ra công chúng sẽ cho phép doanh nghiệp huy động vốn một cách dễ dàng để đáp ứng nhu cầu đa dạng về vốn trong quá trình hoạt động. Chào bán chứng khoán là cách thức huy động vốn linh hoạt và mang lại hiệu quả cao. Do đó, việc tìm hiểu hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động này ở nước ta có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. NỘI DUNG I.Pháp luật chào bán chứng khoán ở Việt Nam 1.Chào bán chứng khoán và vai trò của chào bán chứng khoán. Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán. Chủ thể chào bán chứng khoán rất đa dạng, có thể là chính phủ, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp. Chính phủ thường chào bán chứng khoán dưới dạng trái phiếu chính phủ hoặc tín phiếu kho bạc để huy động vốn, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ khi nguồn thu của ngân sách nhà nước hoặc ngân sách địa phương không đủ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Các doanh nghiệp có thể chào bán chứng khoán dưới dạng cổ phiếu hoặc trái phiếu tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp, để gọi vốn, thỏa mãn nhu cầu vốn trong kinh doanh. Không phải tất cả các doanh nghiệp đều được chào bán chứng khoán mà quyền chào bán chứng khoán thường chỉ dành riêng cho công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Công ty cổ phần có quyền chào bán cả cổ phiếu và trái phiếu còn công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có quyền chào bán trái phiếu. Chào bán chứng khoán có vai trò quan trọng không chỉ đối với chủ thể chào bán mà còn đối với cả nền kinh tế nói chung. Đối với chủ thể phát hành là chính phủ thì việc chào bán chứng khoán có khả năng giúp chính phủ thu hút được nguồn vốn lớn từ khắp nơi trên toàn quốc. Như vậy, ngay cả khi ngân sách Nhà nước thâm hụt, chính phủ vẫn có thể huy động vốn để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của mình, đặc biệt là để thực hiện các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở mà không phải dùng đến những biện pháp tạo tiền có nguy cơ dẫn đến lạm phát. Ngày nay, chính phủ của hầu hết các nước phát triển và đang phát triển đều chào bán chứng khoán để bù đắp thâm hụt ngân sách. Thực tiễn cho thấy, không chỉ nước nghèo mà cả nước giàu đều bải đương đầu với nạn bội chi ngân sách và bù đắp thâm hụt ngân sách bằng con đường vay dân, qua phát hành công trái hay trái phiếu chính phủ, các biện pháp này xem ra được các quốc gia ưa chuộng hơn con đường in thêm tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ. 2. Các hình thức chào bán chứng khoán Phương thức chào bán chứng khoán là phương pháp và hình thức thực hiện việc chào bán chứng khoán. Việc đưa chứng khoán từ nơi phát hành đến với người có nhu cầu mua chứng khoán có nhiều cách thức khác nhau. Chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ hiện nay đang là hai phương thức được sử dụng rộng rãi: Theo quy định tại Khoản 12 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 thì: “chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức sau đây: a.Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet; b. Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; c.Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định”. Chào bán chứng khoán riêng lẻ là hoạt động chào bán của chủ thể phát hành cho các khách hàng đặc biệt, thường là các nhà đầu tư có tổ chức. Riêng chào bán cổ phần riêng lẻ được định nghĩa tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định 01/2010/NĐ-CP đó là việc chào bán cổ phần hoặc quyền mua cổ phần trực tiếp và không sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng cho một trong các đối tượng sau: a.Các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; b.Dưới 100 nhà đầu tư không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. II.Pháp luật về chào bán chứng khoán ở Việt Nam. 1.Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng. a.Chủ thể cháo bán chứng khoán ra công chúng Chủ thể chào bán chứng khoán ra công chúng là những tổ chức tiến hành huy động vốn trên thị trường chứng khoán bằng cách chào bán ra công chúng các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu đối với phần vốn góp của các tổ chức phát hành (cổ phiếu), hoặc xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành (trái phiếu) hoặc xác nhận các quyền lợi hợp pháp khác của người sỏ hữu chứng khoán (quyền ưu tiên mua trước, trái phiếu chuyển đổi…) Chủ thể phát hành chứng khoán gồm: Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, trường hợp này tùy theo yêu cầu nắm giữ vốn của nhà nước tại doanh nghiệp, phần vốn còn lại sẽ được doanh nghiệp chào bán rộng rãi ra công chúng thông qua phát hành cổ phiếu. Hoạt động chào bán cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần hóa nói trên phải chịu sự điều chỉnh của những quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng. Chủ thể phát hành chứng khoán ra công chúng còn là công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành công ty cố phần thông qua việc chào bán cổ phiếu ra công chúng để gọi vốn rộng rãi từ công chúng đầu tư. Đây cũng là một trong những hình thức tổ chức lại doanh nghiệp được thừa nhận theo Luật doanh nghiệp 2005. Vì vậy khi chào bán cổ phiếu ra công chúng để huy động vốn các công ty này cũng phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật chào bán chứng khoán ra công chúng. Chủ thể phát hành chứng khoán ra công chúng là những công ty cổ phần phi đại chúng, nay có nhu cầu tăng vốn điều lệ bằng chào bán cổ phiếu rộng rãi ra công chúng; cũng có thể là các công ty cổ phần đại chúng gọi thêm vốn bằng cách chào bán cổ phiếu bổ sung hoặc chào bán các loại chứng khoán khác theo quy định của pháp luật cũng có thể là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn được phép chào bán chứng khoán ra công chúng để huy động nguồn vốn dài hạn, tạm thời nhàn rỗi trong công chúng đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của mình. Ngoài ra, chủ thể phát hành chứng khoán ra công chúng còn các quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng và các công ty đầu tư chứng khoán. Đây là nhóm chủ thể đặc thù chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư đại chúng (do quỹ công chúng thực hiện) hoặc cổ phiếu (do công ty quản lý quỹ thực hiện) được chủ yếu đầu tư vào chứng khoán, đem lại lợi nhuận đầu tư cho các quỹ đầu tư chứng chỉ của quỹ hoặc các cổ đông của công ty đầu tư chứng khoán. Phân loại chủ thể phát hành chứng khoán còn có thể chia làm hai loại là chủ thể trong nước và chủ thể nước ngoài nhưng bài viết này chỉ đi sâu vào chủ thể chính là chủ thể phát hành chứng khoán trong nước. b.Phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng Phương thức chào bán chứng khoán là phương pháp và hình thức thực hiện việc chào bán chứng khoán. * Phương thức chào bán thông qua đại lý Theo phương thức này tính chất trung gian bên nhận đại lý sẽ ký kết hợp đồng để bán chứng khoán của họ trên thị trường sơ cấp. Bên đại lý có thể là ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm… Các đơn vị này sẽ được hưởng hoa hồng theo tỷ lệ trực tiếp trên tổng lượng chứng khoán được bán ra. * Phương thức bảo lãnh phát hành Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước và sau khi chào bán chứng khoán như định giá chứng khoán, chuẩn bị hồ sơ xin phép phát hành chứng khoán, tổ chức vệc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu ngay sau khi phát hành thông qua hợp đồng bảo lãnh giữa tổ chức bảo lãnh và doanh nghiệp phát hành c. Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng Sau khi thực hiện việc chào bán chứng khoán ra công chúng, chứng khoán của chủ thể phát hành sẽ được sở hữu rộng rãi bởi các nhà đầu tư. Sự thành, bại của chủ thể phát hành trong quá trình kinh doanh sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn lợi của các nhà đầu tư (gồm các cổ đông, các chủ sở hữu trái phiếu, chủ sở hữu chứng chỉ quỹ) có được từ cổ tức hoặc từ lãi trái phiếu hoặc chứng chỉ quỹ. Để bảo vệ lợi ích thỏa đáng của các nhà đầu tư và cũng là để củng cố lòng tin của họ vào thị trường chứng khoán, pháp luật mà cụ thể là LCK đã đề ra những điều kiện mà các tổ chức phát hành phải thỏa mãn để được chào bán chứng khoán ra công chúng. Hiện nay theo LCK năm 2006 các điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng cũng được các nhà làm luật thiết kế có phân biệt giữa chào bán cổ phiếu, chào bán trái phiếu và chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng; tuy nhiên không còn có sự phân biệt giữa điều kiện chào bán cổ phiếu lần đầu và điều kiện chào bán thêm cổ phiếu mà tổ chức phát hành phải thỏa mãn như trước đây. Những quy định của LCK về điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng còn lưu ý tới địa vị pháp lý của chủ thể phát hành cũng như địa vị pháp lý nơi diễn ra việc chào bán chứng khoán vì vậy điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng được xây dựng có phân biệt giữa công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ti cổ phần và doanh nghiệp thành lập mới, thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao; giữa chào bán chứng khoán trong nước và chào bán chứng khoán ra nước ngoài. Ngoài ra theo Nghị định 84/2010/NĐ-CP mới ban hành thì tổ chức phát hành phải mở một tài khoản riêng biệt tại một ngân hàng thương mại để phong toả số tiền thu được từ đợt chào bán. Trường hợp tổ chức phát hành là ngân hàng thương mại thì phải lựa chọn một ngân hàng thương mại khác để phong tỏa số tiền thu được từ đợt chào bán. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, tổ chức phát hành phải báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về kết quả chào bán kèm theo xác nhận của ngân hàng thương mại nơi mở tài khoản phong toả về số tiền thu được từ đợt chào bán. Sau khi gửi báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, tổ chức phát hành được giải toả số tiền thu được từ đợt chào bán. d. Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng Trình tự thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng gồm ba bước cơ bản là : đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng, công bố thông tin trước khi chào bán chứng khoán ra công chúng và cuối cùng là phân phối chứng khoán ra công chúng. 2.Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ. a.Chủ thể phát hành chứng khoán riêng lẻ. Chủ thể phát hành chứng khoán riêng lẻ gồm bộ phận các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, các công ty cổ phần mới thành lập theo Luật doanh nghiệp, các công ty chứng khoán phi đại chúng và công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn đầu tư trong nước hoặc có vốn đầu tư nước ngoài. Theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 01/2010/NĐ-CP thì chủ thể phát hành cổ phần riêng lẻ bao gồm: công ty cổ phần, các doanh nghiệp chuyển đổi thành công ty cổ phần, ngoại trừ các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần. b.Điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ. Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ. Đối với công ty cổ phần mới thành lập: trước hết công ty đó phải có Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Sau khi đã đăng kí kinh doanh hợp lệ, công ty cổ phần có quyền chào bán số lượng cổ phiếu được quyền chào bán đã được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Đối với doanh nghiệp Nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần: phải đáp ứng các điều kiện cổ phần hóa và các điều kiện minh bạch thông tin trước khi chào bán. Doanh nghiệp muốn cổ phần hóa trước hết phải là doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, hai là chỉ được tiến hành cổ phần hóa nếu còn vốn Nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại giá trị doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp muốn cổ phần hóa là đơn vị hạch toán phụ thuộc của các doanh nghiệp thuộc đối tượng cổ phần hóa còn phải thỏa mãn thêm 3 điều kiện: phải có đủ điều kiện hạch toán độc lập, việc cổ phần hóa đơn vị hạch toán độc lập này không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp và đã xác định trong phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Điều kiện minh bạch thông tin trước khi chào bán cổ phiếu riêng lẻ đòi hỏi doanh nghiệp chào bán phải công bố thông tin về bản thân doanh nghiệp cổ phần hóa. Những thông tin này phải được công bố trước khi chào bán 20 ngày để nhà đầu tư có thời gian tìm hiểu cần thiết về loại cổ phiếu sẽ chào bán để có quyết định đầu tư đúng đắn. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần thông qua chào bán cổ phiếu riêng lẻ thì phải đáp ứng các điều kiện: ba điều kiện cần thiết để được chuyển đổi thành công ty cổ phần: phải huy động đủ vốn pháp định theo quy định tại Giấy phép đầu tư trước khi tiến hành chuyển đổi, phải có thời gian hoạt động chính thức tối thiểu 3 năm và trong năm thứ 3 liền kề năm chuyển đổi hình thức hoạt động doanh nghiệp phải làm ăn có lãi, phải có hồ sơ đề nghị chuyển đối sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần; sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, doanh nghiệp phải công bố rộng rãi về việc chuyển đổi hình thức doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đảm bảo nhà đầu tư nắm được những thông tin cần thiết. Điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ. Trước tiên: doanh nghiệp đó phải được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty Nhà nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần hoặc phải là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Kể từ khi chính thức bước vào hoạt động cho tới khi thực hiện việc chào bán trái phiếu riêng lẻ doanh nghiệp phải có thời gian hoạt động ít nhất là một năm; doanh nghiệp phải có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán; doanh nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu của pháp luật về năng lực kinh doanh, thể hiện ở số lãi của hoạt động sản xuất, kinh doanh năm liền kề trước năm phát hành; doanh nghiệp phải có phương án phát hành trái phiếu đã được tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền của doanh nghiệp thông qua. Tùy thuộc vào hình thức sở hữu của doanh nghiệp phát hành trái phiếu và loại trái phiếu sẽ được chào bán mà cơ quan có thẩm quyền thông qua phương án phát hành trái phiếu khác nhau. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cơ quan này là hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên nếu chào bán trái phiếu thường hoặc đại hội cổ đông của công ty cổ phần trong trường hợp chào bán trái phiếu chuyển đổi. Đối với doanh nghiệp Nhà nước, phương án chào bán trái phiếu phải được Bộ tài chính chấp thuận. Điều kiện chào bán cổ phần riêng lẻ. Để chào bán cổ phần riêng lẻ, doanh nghiệp phải có quyết định thông qua phương án chào bán cổ phần riêng lẻ và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị theo Điều lệ công ty hoặc ủy quyền của Đại hội đồng cổ đông cho Hội đồng quản trị (đối với công ty cổ phần); hoặc Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển thành công ty cổ phần); hoặc chủ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Hội đồng quản trị doanh nghiệp liên doanh (đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần); phương án chào bán phải xác định rõ đối tượng và số lượng nhà đầu tư được chào bán dưới 100 nhà đầu tư và hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng 01 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán; trường hợp chào bán cho các đối tác chiến lược, tổ chức chào bán phải xây dựng tiêu chí xác định, lựa chọn đối tác chiến lược. Đối tác chiến lược là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp; chuyển giao công nghệ mới, cung ứng nguyên vật liệu, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm; gắn bó lợi ích lâu dài với doanh nghiệp. Trường hợp tổ chức chào bán là doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành liên quan. c.Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ. Thứ nhất: nếu chứng khoán chào bán là cổ phần thì phải làm thủ tục đăng kí với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hồ sơ đăng kí được quy định tại Điều 9 nghị định 01/2010/NĐ-CP. Thứ hai: Công bố thông tin trước khi chào bán chứng khoán riêng lẻ. Thứ ba: Phân phối chứng khoán III.Đánh giá pháp luật về chào bán chứng khoán ở Việt Nam 1.Ưu điểm Trong thời gian qua, hoạt động chào bán cổ phần cho các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp hoặc dưới 100 nhà đầu tư không phải nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, gọi tắt là chào bán cổ phần riêng lẻ, đã trở thành một công cụ huy động vốn khá hiệu quả. Mặc dù Bộ Tài chính đã ban hành Công văn số 14285/BTC – UBCK ngày 26/11/2008 để hướng dẫn thực hiện một số điểm của Chỉ thị số 20/2008/CT – TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý thị trường chứng khoán, trong đó hướng dẫn các quy trình chào bán cổ phần riêng lẻ mà doanh nghiệp phải thực hiện nhưng doanh nghiệp vẫn khó tránh khỏi sai phạm trong quá trình áp dụng khi các quy định đó còn chưa cụ thể và chưa có chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm. Chính vì vậy, việc ban hành Nghị định số 01/2010/NĐ – CP về chào bán cổ phần riêng lẻ trong thời điểm này là hết sức cần thiết. Nếu như trước đây, việc chào bán cổ phần riêng lẻ của doanh nghiệp không chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước nào, thì từ nay, hoạt động này được đưa vào diện quản lý với sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (trong trường hợp tổ chức chào bán là tổ chức tín dụng), Bộ Tài chính (trong trường hợp tổ chức chào bán là doanh nghiệp bảo hiểm cổ phần), Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (trong trường hợp tổ chức chào bán là công ty cổ phần chứng khoán, công ty cổ phần quản lý quỹ, công ty đại chúng, trừ các công ty đại chúng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tín dụng, bảo hiểm), Sở kế hoạch và đầu tư, Ban quản lý Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế (trong trường hợp tổ chức chào bán là các công ty cổ phần còn lại). Như vậy, sẽ góp phần tăng cường sự quản lý của cơ quan Nhà nước đối với thị trường tài chính, hạn chế khủng hoảng và làm minh bạch hóa thị trường tài chính trong nước. Đặc biệt quy định về các hình thức xử phạt hành chính trong hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ với mức phạt tiền cao nhất lên tới 100 triệu đồng cũng khiến các doanh nghiệp phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm túc hơn. 2.Nhược điểm Việc một nghị định hoàn toàn mới ban hành sẽ dẫn đến nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc hoạt động, đặc biệt là nghị định 01/2010/NĐ - CP đã thêm một bước trong thủ tục đăng ký chào bán chứng khoán riêng lẻ đối với các công ty cổ phân không phải là công ty đại chúng, đó là làm hồ sơ đăng ký chào bán riêng lẻ cho đơn vị quản lý trực tiếp. Nhiều doanh nghiệp đang còn rất lúng túng vì nghị định mới chưa được “phổ cập” chứ chưa nói gì đến việc có kinh nghiệm để làm hồ sơ đầy đủ, chính xác ngay từ đầu. Về giới hạn chuyển nhượng (tối thiểu một năm), một số nhà đầu tư tổ chức (nhất là các quỹ đầu tư chứng khoán, công ty chứng khoán), cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, quy định thời gian nắm giữ tối thiểu một năm như trên có thể khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Bởi vì, với thị trường chứng khoán Việt Nam hiện tại, nhận định diễn biến trong một năm không hề dễ, nên với việc yêu cầu nắm giữ cổ phiếu trên một năm, doanh nghiệp sẽ khó hơn trong việc tìm được người góp vốn. Một số doanh nghiệp cũng băn khoăn trong việc chào bán cổ phần cho cán bộ công nhân viên. Theo nghị định 01/2010, việc chào bán cho đối tượng người lao động cũng có thể bị điều chỉnh bởi quy định chào bán riêng lẻ. Trước đây, theo Thông tư 18/2007/TT – BTC ngày 13/03/2007 về việc hướng dẫn mua, bán lại cổ phiếu và một số trường hợp phát hành thêm cổ phiếu của công ty đại chúng, thì việc cổ phiếu phát hành cho cán bộ công nhân viên không bị quy định về thời gian nắm giữ mà hoàn toàn phụ thuộc
Luận văn liên quan