Hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) là một trong những hoạt động ngân hàng đặc thù, có liên quan đến lợi ích đông đảo của người dân trong xã hội, liên quan đến sự ổn định tiền tệ quốc gia, sự an toàn của hệ thống ngân hàng, sự ổn định và phát triển của nền kinh tế xã hội. Huy động vốn là một hoạt động kinh doanh chính và quan trọng của các TCTD vì nguồn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp này chủ yếu rút ra từ nguồn vốn huy động. Huy động vốn luôn gắn với kế hoạch kinh doanh của các TCTD. Khi các TCTD huy động vốn, vấn đề hiệu quả kinh tế và an toàn cho hệ thống TCTD luôn được đặt ra, bởi về bản chất, hoạt động huy động vốn chính là việc TCTD vay tiền từ các chủ thể khác, đến một thời điểm nhất định TCTD sẽ phải hoàn trả cả gốc và lãi. Hoạt động huy động vốn của các TCTD có thể được thực hiện thông qua các hình thức: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các TCTD, vay vốn của Ngân hàng Nhà nước. Trong các hình thức nêu trên, huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá được xem như là một hoạt động mang lại hiệu quả cao. Bài viết này sẽ tập trung tìm hiểu về pháp luật huy động vốn thông qua hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các TCTD.
19 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2214 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Phần một: Mở đầu 1
Phần hai: Nội dung 1
I. Khái quát chung về hoạt động huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng
1. Khái quát về hoạt động huy động vốn 1
2. Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá 2
3. Vai trò của hoạt động huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá đối với hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng 4
II. Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng
1. Quy định chung về giấy tờ có giá 5
2. Chủ thể phát hành 6
3. Đối tượng được mua giấy tờ có giá 7
4. Điều kiện để phát hành giấy tờ có giá 7
5. Cơ chế xác lập giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng
a. Quy trình xác lập 10
b. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể 11
III. Nhận xét, đánh giá về huy động vốn thông qua hoạt động phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng
1. Tích cực 11
2. Hạn chế 13
3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về huy động vốn thông qua hoạt động phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng 16
Phần ba: Kết luận 17
Phần một: Mở đầu:
Hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) là một trong những hoạt động ngân hàng đặc thù, có liên quan đến lợi ích đông đảo của người dân trong xã hội, liên quan đến sự ổn định tiền tệ quốc gia, sự an toàn của hệ thống ngân hàng, sự ổn định và phát triển của nền kinh tế xã hội. Huy động vốn là một hoạt động kinh doanh chính và quan trọng của các TCTD vì nguồn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp này chủ yếu rút ra từ nguồn vốn huy động. Huy động vốn luôn gắn với kế hoạch kinh doanh của các TCTD. Khi các TCTD huy động vốn, vấn đề hiệu quả kinh tế và an toàn cho hệ thống TCTD luôn được đặt ra, bởi về bản chất, hoạt động huy động vốn chính là việc TCTD vay tiền từ các chủ thể khác, đến một thời điểm nhất định TCTD sẽ phải hoàn trả cả gốc và lãi. Hoạt động huy động vốn của các TCTD có thể được thực hiện thông qua các hình thức: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các TCTD, vay vốn của Ngân hàng Nhà nước. Trong các hình thức nêu trên, huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá được xem như là một hoạt động mang lại hiệu quả cao. Bài viết này sẽ tập trung tìm hiểu về pháp luật huy động vốn thông qua hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các TCTD.
Phần hai: Nội dung:
I. Khái quát chung về hoạt động huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng:
1. Khái quát về hoạt động huy động vốn:
Khi nền sản xuất hàng hóa hình thành, phát triển thì tiền tệ xuất hiện và nghề kinh doanh tiền tệ cũng ra đời. Sự phát triển của ngành nghề kinh doanh tiền tệ dẫn đến sự xuất hiện những tổ chức chuyên thực hiện hoạt động thu nhận các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và sử dụng để cấp tín dụng, làm các dịch vụ tiền tệ khác, người ta gọi chúng là các tổ chức tín dụng (TCTD). Ngày nay các TCTD với nhiều loại hình, tên gọi khác nhau, nghiệp vụ kinh doanh ngày càng đa dạng.
Xét theo góc độ kinh tế, TCTD là doanh nghiệp hoạt động với mục đích lợi nhuận là chủ yếu; xét dưới góc độ pháp lý, TCTD là một định chế tài chính trung gian thực hiện cung cấp các dịch vụ tiền tệ cho các chủ thể có nhu cầu. TCTD mang những đặc điểm đặc thù như:
Một là, TCTD có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ.
Hai là, TCTD là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng. Đây là hoạt động kinh doanh tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao do tính chất kéo dài của các quan hệ kinh doanh.
Ba là, TCTD là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và thuộc phạm vi áp dụng của luật ngân hàng.
Hoạt động của TCTD rất phong phú và đa dạng. Các hoạt động này đã góp phần quan trọng trong việc luân chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế và tạo ra những tiện ích nhất định cho người dân. Một trong những hoạt động đầu tiên và được biết tới một cách phổ biến, luôn gắn liền với các tổ chức tín dụng là hoạt động huy động vốn.
Hiện tại trong các văn bản pháp luật chưa nêu ra khái niệm cụ thể của hoạt động huy động vốn của các TCTD mà mới chỉ ra các hình thức huy động vốn được phép của từng loại hình TCTD. Tuy nhiên, một cách khái quát có thể hiểu hoạt động huy động vốn của TCTD là việc TCTD tập trung các khoản tiền từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế thông qua bốn hình thức huy động vốn cơ bản: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các TCTD, vay vốn của Ngân hàng Nhà nước.
2. Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá:
Hiện nay, việc huy động vốn bằng hình thức phát hành giấy tờ có giá của các TCTD chủ yếu được điều chỉnh trong Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD để huy động vốn trong nước ban hành kèm theo quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN. Theo đó thì “giấy tờ có giá là chứng nhận của TCTD phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa TCTD và người mua”. Về bản chất, giấy tờ có giá là một công cụ vay nợ trên thị trường tiền tệ, thị trường vay vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền gửi, trong đó TCTD cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất định.
Hoạt động huy động vốn thông qua hình thức phát hành giấy tờ có giá là việc các TCTD vay vốn của các tổ chức, cá nhân thông qua việc phát hành các loại giấy tờ có giá với sự chấp nhận của Ngân hàng Nhà nước hoặc Ủy ban chứng khoán Nhà nước. Giao dịch này mang những đặc điểm sau:
Một là, về bản chất pháp lý, việc phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng ra công chúng thực chất là một hành vi vay tiền của khách hàng chứ không phải là hành vi “bán” giấy tờ có giá cho khách hàng. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy là bởi vì, trong quan hệ giao dịch này, tổ chức tín dụng không hề có quyền sở hữu đối với các giấy tờ có giá mà nó dự định phát hành, nên không thể đóng vai trò là người bán. Mặt khác, trước khi các giấy tờ có giá được tổ chức tín dụng chuyển giao cho khách hàng sở hữu như một chứng thư xác nhận quyền chủ nợ và tổ chức tín dụng cũng chưa nhận được nguồn vốn tiền tệ do khách hàng chuyển giao thì các chứng thư này thực chất chưa hề có giá trị thực tế, nghĩa là không thể hoán đổi chúng thành tiền hay các tài sản khác có giá trị tương đương với số tiền ghi trên mệnh giá của chứng thư. Điều đó cho thấy, chỉ khi nào khách hàng chấp nhận trao đổi chứng thư đó với tổ chức tín dụng bằng số tiền tương đương mệnh giá của chứng thư thì khi đó, chứng thư này mới thực sự là có giá trị và mới phản ánh đúng tên gọi của nó là “giấy tờ có giá” hay “tư bản giả”.
Hai là, về đối tượng của giao dịch, mặc dù tên gọi của giao dịch là “phát hành các giấy tờ có giá” nhưng đối tượng của giao dịch này không phải là các giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành, mà chính là các khoản tiền vốn do khách hàng đồng ý chuyển quyền sở hữu cho tổ chức tín dụng với điều kiện tổ chức tín dụng phải hoàn trả cho khách hàng sau một thời hạn nhất định, kèm theo khoản lãi do các bên thoả thuận. Về lý thuyết, tuy không phải là đối tượng của giao dịch nhưng các chứng thư này được coi là hình thức pháp lý của giao dịch, đồng thời là chứng cứ chứng minh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan hệ giao dịch. Mặt khác, xét về phương diện kinh tế, các chứng thư này cũng được coi là một loại “tiền ngân hàng” nhưng không phải là tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành, mà là tiền được tạo ra bởi tổ chức tín dụng trong quá trình huy động vốn, thông qua chức năng “tạo tiền” của tổ chức tín dụng. Trên thực tế, các chứng thư nhận nợ do tổ chức tín dụng phát hành ra công chúng có thể là chứng khoán nợ ngắn hạn – có thời hạn thanh toán dưới 1 năm, ví dụ chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn; kỳ phiếu ngân hàng hay tín phiếu của tổ chức tín dụng, hoặc là chứng khoán nợ dài hạn (có thời hạn thanh toán từ 1 năm trở lên, ví dụ chứng thư tiền gửi dài hạn hoặc trái phiếu ngân hàng…). Sự phân biệt giữa hai loại chứng thư nhận nợ này chủ yếu nhằm xác định cơ chế phát hành và lưu thông chúng như thế nào sau khi đã được phát hành trên thị trường bởi tổ chức tín dụng (phát hành và bán lại cho ai, ở đâu và bằng cách nào?).
Ba là, về tư cách pháp lý, khi phát hành các giấy tờ có giá để vay nợ của khách hàng, tổ chức tín dụng có tư cách là người vay hay người mắc nợ, còn khách hàng “mua” giấy tờ có giá có tư cách là người cho vay hay chủ nợ của tổ chức tín dụng. Mặc dù có tư cách là người cho vay nhưng do giao dịch này được tổ chức tín dụng và khách hàng xác lập, thực hiện thông qua một hợp đồng cho vay có thời hạn xác định nên về nguyên tắc, khách hàng cho vay không thể rút vốn về trước kỳ hạn như trong trường hợp họ gửi tiền có kỳ hạn tại tổ chức tín dụng (bằng cách chịu lãi suất phạt với tổ chức tín dụng nhận tiền gửi). Nếu muốn thu hồi vốn về trước kỳ hạn, cách duy nhất là người sở hữu giấy tờ có giá (bên cho vay) ký hợp đồng chuyển nhượng chứng thư đó cho người khác (chẳng hạn, có thể “bán” cho ngân hàng thương mại theo phương thức chiết khấu hoặc bán cho các tổ chức, cá nhân khác theo phương thức thông thường trên thị trường tiền tệ hoặc thị trường chứng khoán).
3. Vai trò của hoạt động huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá đối với hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng:
Bằng cách huy động vốn, TCTD có khả năng tập trung một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn. Hình thức huy động vốn này thường được sử dụng sau khi TCTD đã tiếp nhận được những dự án vay vốn lớn, với thời hạn giải ngân cụ thể của khách hành.
Trong huy động vốn dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá, các TCTD thường phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi guy động. Do đó nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi TCTD thiếu vốn. Khi huy động vốn theo hình thức này, TCTD phải căn cứ vào khả năng đầu ra để quyết định khối lượng vốn huy động, mức lãi suất, thời hạn và phương pháp huy động vốn.
Cùng với nguồn vốn huy động từ nhận tiền gửi, nguồn vốn huy động từ việc phát hành giấy tờ có giá cũng giữ một vị trí quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn kinh doanh của TCTD. Đây là nguồn vốn có ảnh hưởng lớn đến chi phí và khả năng mở rộng kinh doanh của TCTD. Nguồn vốn này có xu hướng ngày càng gia tăng, phù hợp với xu hướng tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế, với việc cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ của TCTD, với việc gia tăng nhu cầu thanh toán của khách hàng.
II. Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng:
1. Quy định chung về giấy tờ có giá:
Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành là một công cụ vay nợ trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền gửi, trong đó, TCTD cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất định.
Theo pháp luật quy định: Giấy tờ có giá do TCTD phát hành là chứng nhận của TCTD phát hành để huy động vốn trong đó, xác định nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa TCTD và người mua.
Giấy tờ có giá do TCTD phát hành bao gồm giấy tờ có giá ngắn hạn (thời hạn dưới 12 tháng như: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn tín phiều và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác) và giấy tờ có giá dài hạn (thời hạn từ 12 tháng trở lên như: trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn, và các giấy tờ có giá dài hạn khác).
Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành có thể thể hiện dưới hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ, có thể là loại giấy tờ có giá ghi danh hoặc không ghi danh. Hình thức chứng chỉ ghi danh áp dụng đối với người mua là cá nhân. Hình thức chứng chỉ vô danh áp dụng đối với người mua là cá nhân và tổ chức. Hình thức ghi sổ áp dụng đối với người mua là tổ chức có tài khoản tiền gửi tại TCTD phát hành. Trường hợp phát hành giáy tờ có giá theo hình thức ghi sổ, TCTD phát hành phải cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá cho người mua.
Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức mua, bán, tặng, cho, trao đổi, thừa kế hoặc người sở hữu giấy tờ có giá có thể dùng làm vật cầm cố.
2. Chủ thể phát hành:
Theo Điều 2 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD (ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/3/2008 của Thống đốc NHNN), các chủ thể phát hành giấy tờ có giá bao gồm:
- Các TCTD được thành lập, hoạt động theo Luật các TCTD, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các TCTD và đáp ứng các điều kiện theo quy định của quy chế này, bao gồm:
+ Các TCTD Nhà nước.
+ Các TCTD cổ phần.
+ Quỹ tín dụng nhân dân trung ương.
+ Các TCTD liên doanh.
+ Các TCTD 100% vốn nước ngoài và các chi nhánh ngân hang nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam.
- Riêng công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính, loại giấy tờ có giá và thời hạn giấy tờ có giá được phép huy động thực hiện theo quy định hiện hành về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính.
3. Đối tượng được mua giấy tờ có giá:
Theo Điều 3 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD (ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/3/2008 của Thống đốc NHNN), người mua giấy tờ có giá bao gồm:
- Tổ chức, cá nhân Việt Nam; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam, bao gồm các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và không hoạt động tại Việt Nam .
Đối với người mua giấy tờ có giá là tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức tín dụng chỉ được phát hành giấy tờ có giá ghi danh.
4. Điều kiện để phát hành giấy tờ có giá:
TCTD muốn được huy động vốn bằng phát hành các giấy tờ có giá phải thoả mãn những điều kiện mà pháp luật quy định và được Thống đốc NHNN hoặc người được Thống đốc NHNN uỷ quyền chấp thuận bằng văn bản. Cụ thể:
Thứ nhất, về điều kiện để được phát hành giấy tờ có giá bao gồm:
- Phải là các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng gồm: tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần, tổ chức tín dụng liên minh, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, các tổ chức tín dụng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. Riêng công ty cho thuê tài chính chỉ được phát hành giấy tờ có giá thời hạn trên 12 tháng
- Tuân thủ các quy định về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của NHNN.
- Có tình hình tài chính lành mạnh theo đánh giá của thanh tra ngân hàng.
- Trong trường hợp tổ chức tín dụng phát hành giấy tờ có giá theo phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng thì việc phát hành, niêm yết và giao dịch giấy tờ có giá của TCTD tại thị trường chứng khoán tập trung được thực hiện theo các quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Thứ hai, về trình tự và thủ tục phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng:
Tổ chức tín dụng muốn phát hành giấy tờ có giá phải nộp hồ sơ đề nghị phát hành gửi đến NHNN trung ương (Vụ chính sách tiền tệ) hoặc Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở chính đối với tổ chức tín dụng cổ phần trong trường hợp đề nghị phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn. Hồ sơ đề nghị bao gồm:
- Đơn đề nghị phát hành giấy tờ có giá người ngắn hạn trong năm tài chính, hoặc dài hạn.
- Kế hoạch phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn (trong đó nêu rõ mục đích phát hành, phương án sử dụng, tổng số dư giấy tờ có giá ngắn hạn trong năm tài chính, số đợt và thời điểm dự kiến phát hành, tên gọi giấy tờ có giá phát hành, đồng tiền phát hành) Đối với phát hành giấy tờ có giá dài hạn thì phương án phát hành trong đó nêu rõ mục đích phát hành, phương án sử dụng, tổng mệnh giá phát hành, mệnh giá, tên gọi của mệnh giá, thời hạn, lãi suất, phạm vi phát hành, cách thức địa điểm trả gốc và lãi, các điều kiện và điều khoản về quyền và nghĩa vụ của TCTD và người mua. Phương án phát hành giấy tờ có giá dài hạn phải được Hội đồng quản trị thông qua.
- Các báo cáo tài chính của hai năm liên tục gần nhất và tính đến thời điểm có đơn đề nghị phát hành. Các TCTD có thời hạn hoạt động dưới hai năm gửi các báo cáo tài chính từ khi bắt đầu hoạt động đến thời điểm có đơn đề nghị phát hành. Nếu các TCTD đề nghị phát hành giấy tờ có giá dài hạn thì các báo cáo tài chính phải được một tổ chức kiểm toán được Ngân hàng Nhà nước thừa nhận hoặc thanh tra NHNN xác nhận.
- Kế hoạch kinh doanh trong năm tài chính.
- Điều lệ và giấy phép hoạt động (đối với TCTD phát hành lần đầu).
- Các thay đổi về bộ máy tổ chức và thay đổi khác (nếu có).
- Mẫu giấy tờ có giá phát hành (nếu là phát hành giấy tờ có giá dài hạn).
Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ đề nghị phát hành giấy tờ có giá của TCTD, NHNN có quyết định chấp thuận hoặc không chấp thuận đề nghị xin phát hành giấy tờ có giá của TCTD.
Trên cơ sở xem xét hồ sơ đề nghị phát hành và điều kiện phát hành, Thống đốc NHNN hoặc người được Thống đốc uỷ quyền ra quyết định chấp thuận, không chấp thuận đối với kế hoạch phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong cả năm hoặc đối với từng đợt phát hành giấy tờ có giá dài hạn của TCTD.
Sau khi có quyết định chấp thuận cho phát hành của người có thẩm quyền, TCTD sẽ tiến hành phát hành giấy tờ có giá, cụ thể:
- Đối với phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, TCTD chủ động tổ chức các đợt phát hành trong phạm vi kế hoạch cả năm đã được chấp thuận. Nếu phát hành vượt quá kế hoạch phát hành trong cả năm đã được chấp thuận thì phải được sự chấp thuận bổ sung bằng văn bản của NHNN nơi đã ra quyết định chấp thuận phát hành. Trước thời điểm phát hành ít nhất 20 ngày làm việc, TCTD phải gửi thông báo phát hành của đợt phát hành dự kiến về NHNN nơi đã ra quyết định chấp thuận phát hành. Nếu trước ngày phát hành dự kiến 10 ngày làm việc, NHNN không có ý kiến bằng văn bản thì TCTD được tổ chức phát hành giấy tờ có giá. Hàng tháng, TCTD báo cáo bằng văn bản về kết quả phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn chậm nhất vào ngày 10 tháng tiếp theo cho NHNN nơi ra quyết định chấp thuận.
- Đối với phát hành giấy tờ có giá dài hạn, các TCTD phải công bố thông báo phát hành giấy tờ có giá dài hạn trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian tối thiểu 5 ngày liên tiếp trước khi phát hành. Thời điểm bắt đầu phát hành chậm nhất không quá 45 ngày kể từ ngày Thống đốc NHNN chấp thuận. TCTD chỉ được phát hành vượt quá tổng mệnh giá đã được chấp thuận khi có sự chấp thuận bổ sung bằng văn bản của Thống đốc NHNN. Chậm nhất sau 10 ngày làm việc kể từ khi kết thúc đợt phát hành, TCTD báo cáo bằng văn bản về kết quả phát hành giấy tờ có giá dài hạn về NHNN.
Thứ ba, về mệnh giá của giấy tờ có giá do TCTD phát hành được quy định như sau:
Mệnh giá của giấy tờ có giá ngắn hạn được in sẵn hoặc theo thoả thuận của TCTD phát hành với người mua.
Mệnh giá của giấy tờ có giá dài hạn do TCTD phát hành theo hình thức chứng chỉ bằng đồng Việt Nam thì mệnh giá tối thiểu là một triệu đồng và tối đa là một tỷ đồng. Nếu phát hành bằng ngoại tệ thì mệnh giá tối thiểu là 100USD hoặc ngoại tệ khác tương đương và tối đa là 100.000USD hoặc ngoại tệ khác tương đương. Các mệnh giá lớn hơn mệnh giá tối thiểu phải là bội số của mệnh giá tối thiểu. Nếu chứng chỉ là trái phiếu thì mệnh giá được in sẵn hoặc theo thoả thuận của TCTD phát hành với người mua. Mệnh giá của giấy tờ có giá dài hạn do TCTD phát hành theo hình thức ghi sổ thì do TCTD phát hành thoả thuận với người mua.
TCTD huy động vốn bang phát hành giấy tờ có giá phải có trách nhiệm công bố công khái về việc phát hành giấy tờ có giá theo quy định, phải thanh toán tiền gốc và lãi đùng hạn và đầy đủ cho người sở hữu giấy tờ có giá và phải thực hiện chế độ báo cáo phát hành cho NHNN theo quy định.
5. Cơ chế xác lập giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng:
a. Quy trình xác lập:
Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD quy định việc phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam từ các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài. Phát hành giấy tờ có giá là một hành vi pháp lý được quy định theo một quy trình chặt chẽ bao gồm các công việc chủ yếu như: thông qua Hội đồng quản trị về kế hoạch phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn từ công chúng; làm t